Nếu như không có bước tiến gì mới mẻ trong ngành “biện ngụy học”, thì có thể nói, Thiên đô chiếu thuộc số ít những tác phẩm sớm nhất của văn học trung đại Việt Nam (thế kỉ X - XIX), cũng là tác phẩm có ý nghĩa rất quan trọng trong tiến trình phát triển của lịch sử văn minh dân tộc. Bởi vậy, từ khá sớm, tác phẩm đã được chuyển dịch, công bố, phân tích, dẫn dụng. Tuy nhiên, vì đây là một văn bản Hán cổ, ngôn ngữ uẩn súc, ý tứ sâu xa nên không dễ tiếp cận, nhất là nếu chỉ tiếp cận qua bản dịch. Điều đó đòi hỏi độc giả cần hiểu biết tường tận về “nguyên bản”, từ chữ nghĩa đến văn bản. Mặt khác, đây là một tác phẩm văn học thực hiện chức năng hành chính - công vụ, một “văn kiện” lịch sử, ra đời vì những mục đích thực tiễn, do đó, lại cần đặt nó trong bối cảnh lịch sử cụ thể để hiểu một cách chân xác nhất. Văn bản lại có quá trình truyền bản khá lâu dài, phức tạp nên sự tiếp nhận, diễn giải nó mỗi giai đoạn lịch sử lại có sự khác biệt cần phân tích, lí giải để trả đúng về cội nguồn, xuất xứ của nó. Xuất phát từ hai lí do đó, cộng với mong muốn thấu hiểu hơn nữa “diễn ngôn” của người xưa, chúng tôi đặt vấn đề “đọc Thiên đô chiếu từ nguyên bản và từ lịch sử”. Thực chất, đây là biểu hiện cụ thể việc “đọc sâu” (explication) một tác phẩm văn học hay “sự phân tích chi tiết và tinh vi những mối liên hệ qua lại phức tạp cũng như sự mơ hồ (đa nghĩa) của những thành tố cấu tạo trong một tác phẩm”( ), nhằm tìm kiếm cả nghĩa hiển ngôn, nghĩa phổ biến cũng như nghĩa hàm ẩn, nghĩa sót của văn bản cũng như “liên văn bản”.
1. Văn bản Thiên đô chiếu
Chúng ta đều biết, hiện “nguyên cảo”, “thủ cảo” bài chiếu không còn. Ngay tên bài chiếu cũng không hẳn vốn là như vậy. Cuốn chính sử đầu tiên của nước ta là Đại Việt sử kí (Sử kí, Lê Văn Hưu, 1272) có khả năng “tàng trữ” bài chiếu không còn. Đại Việt sử kí toàn thư (Toàn thư) có ghi lại những lời bàn của Lê Văn Hưu về Lí Công Uẩn, nhưng trong đó tuyệt nhiên không đề cập đến bài chiếu. Cuốn sử cổ nhất của chúng ta hiện còn là An Nam chí lược (Chí lược, Lê Tắc, 1335) cũng không thấy chép, mặc dù có lược sử lại “lộ” Đại La và sự nghiệp của Lí Công Uẩn. Tiếp đó, Đại Việt sử lược (Sử lược, khuyết danh, ước vào thế kỉ XIV) chỉ ghi chép về việc dời đô. So sánh đoạn chép về sự kiện dời đô của Lí Công Uẩn trong Sử lược với Toàn thư sau này ta thấy: Sử lược ghi chép khá đầy đủ về việc dời đô và mô tả khá kĩ kinh thành Thăng Long, nhưng liên quan đến việc dời đô không thấy nói đến bài chiếu. Vì sao Chí lược, Sử lược không có Thiên đô chiếu? Phải chăng vì tính chất “lược” của các sách này? Nhưng một bài chiếu quan trọng như Thiên đô chiếu, số chữ cũng không phải nhiều (214 chữ), tại sao sách lại “lược” đi? Câu hỏi này, cho đến nay, chưa có lời giải thỏa đáng. Chỉ biết rằng, chí ít cho đến đầu thế kỉ XV, Thiên đô chiếu chưa được ghi nhận trong các thư tịch (hiện còn).
Văn bản sớm nhất có lưu giữ Thiên đô chiếu là Toàn thư của Ngô Sĩ Liên (thế kỉ XV) và các sử thần nhà Lê thế kỉ XV-XVII. Không rõ ở thế kỉ XV (1478), khi Ngô Sĩ Liên khởi thảo Toàn thư, bài chiếu đã được ghi nhận hay chưa, chỉ biết rằng đến năm 1697 (năm công bố bản Toàn thư hiện còn), một Thiên đô chiếu hoàn chỉnh đã được công bố. Sách cũng cho biết, “nhà vua cho rằng Hoa Lư chật hẹp, ẩm thấp, không đủ làm chỗ ở của đế vương, muốn dời đi nơi khác, tự tay viết bài chiếu”( ). Toàn thư hiện còn nhiều dị bản, so sánh các dị bản này Trần Kinh Hòa cho biết văn bản Thiên đô chiếu có tính ổn định cao, chỉ sai dị ở một chữ (chữ 塏)( ). Sau Toàn thư là Đại Việt sử kí tiền biên (Tiền biên) của Ngô Thì Sĩ (1726 - 1780) và Ngô Thì Nhậm (1740 - 1803) in năm 1800. Tiền biên thực chất căn cứ trên Toàn thư. Bởi vậy, văn bản Thiên đô chiếu trong các bộ sách này cơ bản là như nhau, trừ câu cuối cùng. Một văn bản cũng lưu giữ Thiên đô chiếu khá đầy đủ là Hoàng Việt văn tuyển (Văn tuyển) của Bùi Huy Bích (1744 - 1818). Văn tuyển được biên soạn hẳn có kế thừa Hoàng Việt văn hải của Lê Quý Đôn (1726 - 1784), “nghiệp sư” của họ Bùi. Văn tuyển chú: “Năm Canh Tuất, đầu niên hiệu Thuận Thiên, Lí Công Uẩn cho cựu đô của nhà Đinh, Lê là thành Hoa Lư chật hẹp, ẩm thấp, giáng chiếu tự viết dời đô đến Đại La thành. Kịp khi thuyền ngự đến dưới thành, có điềm rồng vàng, nhân đổi tên thành Thăng Long”( ). Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Cương mục, 1856 - 1884) của Quốc sử quán triều Nguyễn cũng có trích văn bản này, nhưng lược bỏ đi nhiều, không còn giữ được nguyên bản. Cương mục chép: “Tháng Bảy, mùa thu, dời đô đến thành Thăng Long. Vua cho thành Hoa Lư chật hẹp, ẩm thấp, muốn dời đi, bèn dụ quần thần rằng: ‘…’ Quần thần đều nói: ‘Bệ hạ nói đến điều này, đó là cái lợi muôn đời của thiên hạ vậy. Vua cả mừng, bèn dời đô từ Hoa Lư ra Đại La thành, thuyền ngự đến dưới thành, có rồng hiện ra. Lệnh đổi tên thành thành Thăng Long”( ). Như vậy, đến Cương mục, bài “chiếu” trở thành “dụ”. “Dụ” cũng là “chiếu”, nhưng Cương mục không cho biết đây là “khẩu dụ” hay “chế dụ”. Căn cứ vào văn bản trích, dường như Cương mục có xu hướng cho đây là “khẩu dụ” (bài dụ miệng). Sau đây là bản so sánh các dị bản:
Toàn thư (1697)/ Tiền biên (1800) Tiêu án (1778) Văn tuyển (1825) Cương mục (1887)
[遷都詔] [遷都詔] 徙都昇龍詔 [遷都詔]
手詔曰 手詔曰 手詔曰 喻群臣曰
昔商家至盤庚五遷周室迨成王三徙 昔商家至盤庚五遷周室迨成王三徙 昔商家至盤庚五遷周室迨成王三徙 昔商家五遷周室迨三徙
豈三代之數君徇于己私妄自遷徙 非徇為一己之私 豈三代之數君徇于己私妄自遷徙.
以其圖大宅中為億萬世子孫之計 實為億萬年計 以其圖大宅中為億萬世子孫之計
上謹天命下因民志苟有便輒改 上謹天命下因民志苟有便輒改 皆上謹天命下因民志為萬世計也
故國祚延長風俗富阜/民俗富阜 故國祚延長風俗富阜
而丁黎二家乃徇己私忽天命 丁黎二家 而丁黎二家,乃徇己私忽天命 近者丁黎徇己私
罔蹈商周之跡常安厥邑于茲 不蹈商周之跡常安厥邑于茲 罔蹈商周之跡常安厥邑于茲 安厥邑不為遠徒
致世代弗長算數短促百姓耗損萬物失宜 致世代弗長算數短促百姓耗損萬物失宜 享國不長
朕甚痛之不得不徙 朕甚痛之 朕甚痛之不得不徙 朕甚痛之朕披觀地圖
況高王故都大羅城宅天地區域之中 惟大羅城宅天地區域之中 況高王故都大羅城宅天地區域之中 高駢故都大羅城居天下之中
得龍蟠虎踞之勢正南北東西之位便江山向背之宜 得龍蟠虎踞之勢正南北東西之位便江山向背之宜 得龍蟠虎踞之勢正南北東西之位便江山向背之宜 有龍蟠虎踞之勢四方輻輳
其地廣而坦平厥土高而爽塏 其地廣而坦平厥土高而爽塏 其地廣而坦平厥土高而爽塏
民居蔑昏墊之困 蔑昏墊之困 民居蔑昏墊之困
萬物極繁阜之丰 極繁阜之區 萬物極繁阜之丰 人物繁阜
遍覽越邦斯為勝地 遍覽越邦斯為勝地 遍覽越邦斯為勝地
誠四方輻輳之要會 誠四方之要會 誠四方輻輳之要會
為萬世京師之上都 為萬世之上都 為萬世帝王之上都 誠帝王之上都也
朕欲因此地利以定厥居 朕欲因此地利以定厥居 朕欲乘此地利以定厥居
卿等如何/ 卿等有 卿等必體此意 卿等以為何如
Như vậy, văn bản cổ nhất và đầy đủ nhất chính là bản in trong Toàn thư. Đây cũng là văn bản đáng tin cậy nhất mà chúng tôi dùng để “đọc”.
2. Đọc Thiên đô chiếu
2.1. Cơ sở của việc dời đô: từ lịch sử xa đến quy luật
Bài chiếu trước hết đi tìm một cơ sở lí luận vững chắc cho việc dời đô. Đó là quy luật đã được đúc rút từ lịch sử:
Thứ nhất, dời đô không phải là chuyện hiếm trong lịch sử: “Tích, Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên; Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ”. Quả vậy, vua Bàn Canh là vua thứ 17 của nhà Thương (1766 – 1123 TrCN). Nhà Thương tính đến Bàn Canh dời đô 5 lần: 0) đất Bặc (huyện Thương Khâu, tỉnh Hà Nam); 1) đất Hiêu (huyện Huỳnh Trạch, tỉnh Hà Nam); 2) đất Tương (huyện An Dương, Hà Nam); 3) đất Cảnh (huyện Hà Tân, Sơn Tây); 4) đất Hình (huyện Hình Đài, Hà Bắc); 5) đất Ân (huyện Yển Sư, Hà Nam). Vua Thành Vương là vua thứ 3 của nhà Chu (1122 – 256 Tr.CN). Nhà Chu tính đến Thành Vương dời đô 3 lần: 0) đất Mân (huyện Tuần Ấp, Thiểm Tây; 1) đất Kì (huyện Kì Sơn, Thiểm Tây); 2) đất Phong (phía tây Trường An, Thiểm Tây); 3) Lạc Ấp (Lạc Dương, Hà Nam). Những lần dời đổi này đều mang lại sự cường thịnh cho các triều đại đương thời. Sự phát triển của các triều đại cũng là quá trình tìm nơi đóng đô thích hợp.
Thứ hai, dời đô để “Dĩ kì đồ đại trạch trung, vị ức vạn thế tử tôn chi kế”. “Đồ đại trạch trung” là gì? Hán ngữ đại từ điển giải thích: “ở nơi trung tâm mà khống chế bốn phương, nói về cái lợi của địa thế”. Bài Đông Kinh phú của Trương Hành (78 - 139) có câu: “Cái chỗ kia ở về một mé, mà quy mô nhỏ nhoi, há bằng ở nơi trung tâm mà khống chế bốn phương”. Tiết Tổng chú thích: “Đông Kinh ở vào giữa của trời đất, cái mà nó khống chế là cả bốn phương”( ). Như vậy, lợi thế “khống chế bốn phương” là lợi thế nổi bật trong việc lựa chọn kinh đô của các vị vua thời cổ đại.
Thứ ba, đời đô là thực hiện tôn chỉ: “Thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí; cẩu hữu tiện triếp cải. Cố, quốc tộ diên trường; phong tục phú phụ”. Đây là một bài học kinh điển mà các nhà Nho thường đề cập khi lí giải sự hưng thịnh của một triều đại, một dòng họ, đó là sự thuận lợi của “tam tài” (Thiên, Địa, Nhân): “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. “Thiên thời” là “trên kính mệnh trời” (theo thuyết “thiên mệnh”); “địa lợi” là “chọn ở chỗ giữa”, “chỗ tiện” (theo quan niệm phong thủy và cũng là chính trị thực tiễn); “nhân hòa” là “dưới theo ý dân” (theo “vương đạo”, “nhân trị” Khổng Mạnh). Rõ ràng, cách lí giải của tác giả bài chiếu mang đậm tư tưởng Nho giáo, Đạo giáo. Dời đô không chỉ là chuyện chọn “địa lợi” mà còn là việc thuận theo “thiên thời” và thể theo “nhân hòa”. Đặc biệt, việc bài chiếu lí giải “nhân hòa” ở đây là “dưới theo ý dân” (hạ nhân dân chí) thể hiện tư tưởng “thân dân” của tác giả. Tư tưởng này ứng hợp với lời khuyên của Đào Cam Mộc được chép trong Toàn thư: “Gần đây chúa thượng ngu tối bạo ngược, làm nhiều việc bất nghĩa, trời chán ghét nên không cho hết thọ, con nối thơ ấu, không kham nỗi nhiều khó khăn. Mọi việc phiền nhiễu thần linh không ưa, dân chúng nhao nhác, mong tìn chân chúa. Sao Thân vệ không nhân lúc này nghĩ ra mưu cao, quyết đoán sáng suốt, xa xem dấu cũ của Thang Vũ, gần xem việc làm của Đinh, Lê, trên thuận lòng trời, dưới theo ý dân, mà cứ muốn khư khư giữ tiểu tiết làm gì”( ). Tiểu sử Đào Cam Mộc thế nào thì sử không cho biết chi tiết, nhưng qua ngôn luận của ông này, có thể tin rằng, ông là một trí thức Nho học, am hiểu Nho giáo. Nếu như, người ta muốn đi tìm nhân vật có thể cố vấn hay thậm chí “thảo chiếu thay vua” (như thường thấy trong lịch sử) thì người đầu tiên cần nghĩ đến có lẽ chính là Đào Cam Mộc - khai quốc công thần của nhà Lí!
Tác giả bài chiếu cũng trực tiếp đề cập đến vấn đề “vận nước”, “lộc nước” (quốc tộ). Đây là vấn đề mà các triều đại trước đã khá quan tâm nhưng dường như chưa tìm ra lời giải thỏa đáng. Chẳng hạn, có lần Lê Hoàn (941 - 1005) đã từng hỏi Thiền sư Đỗ Pháp Thuận (914 - 990) về “vận nước ngắn dài”. Thiền sư đã trả lời bằng một bài kệ. Tư tưởng xuyên suốt bài kệ là đường lối “vô vi”. Đó không hẳn là tư tưởng “vô vi” của Đạo gia hay Phật giáo mà vẫn là tư tưởng của Nho giáo. Thiên Vệ Linh Công sách Luận Ngữ chép lời Khổng Tử nói: “Vô vi nhi trị, kì Thuấn dã dư! Phù hà vi tai? Cung kỉ chính Nam diện nhi dĩ hĩ” (Không làm gì mà thiên hạ thịnh trị, có lẽ là Thuấn đấy ư! Ông ta có làm gì đâu? Nghiêm trang đoan chính quay mặt về phương Nam mà thôi). Đây thực chất là tư tưởng “nhân chính” có phần ảo tưởng của Khổng Tử, kì vọng vào đức nhân của người làm vua, phê phán việc dùng vũ lực, hình pháp nặng nề. Đường lối “vô vi” mà Đỗ Pháp Thuận khuyên Lê Hoàn chính là: lấy đức để cảm hóa dân, lấy giáo hóa để khiến dân phục tùng. Sở dĩ Đỗ Pháp Thuận khuyên như vậy là có nguyên nhân thích đáng. Lê Hoàn vốn là một võ tướng, có nhiều võ công hiển hách. Ông dễ có tư tưởng dựa vào võ lực, chiến tranh để củng cố triều đại, xây dựng đất nước và thực tế lịch sử diễn ra đúng như vậy. Lê Hoàn cũng là vị vua nóng nảy, có phần kiêu ngạo, khinh bạc, tự mãn (theo ghi nhận của Tống Cảo – sứ nhà Tống sang Đại Việt năm 990)! Đỗ Pháp Thuận hẳn nắm vững tâm lí đó và cũng nhìn rõ nguy cơ của việc quá đề cao võ công đối với vận mệnh đất nước. Bởi vậy, ông đã khéo léo khuyên Lê Hoàn chú ý nhiều hơn đến việc xây dựng nền chính trị khoan hòa, lấy “giáo hóa” làm đường lối chủ đạo theo kiểu Nho giáo. Nhưng triều Tiền Lê chưa có đủ điều kiện để thực hiện điều đó. Nếu so sánh quan niệm về “quốc tộ” của tác giả Thiên đô chiếu với “quốc tộ” của Đỗ Pháp Thuận, thì rõ ràng quan niệm của tác giả bài chiếu được trình bày toàn diện và sắc bén hơn, kết hợp Nho - Đạo một cách sâu sắc, thực tiễn hơn.
Tác giả bài chiếu còn đề cập đến một vấn đề quan trọng nữa là “phong tục”. “Phong tục” tức “tập tục, phong thượng tích lũy được qua nhiều đời. Chữ này xuất xứ trong Kinh Thi (Chu Nam, Quan thư tự): “Ca ngợi sự giáo hóa, thay đổi phong tục”. Khổng Dĩnh Đạt (đời Đường) chú thích: “Địa lí chí sách Hán thư nói: ‘phàm dân bẩm tính của ngũ thường, mà có âm thanh cứng, mềm, nhanh, chậm khác nhau, liên quan đến phong khí, thủy thổ, nên gọi là phong. Yêu - ghét, nhận - bỏ, động – tĩnh không cố định, tùy theo tình cảm, ham muốn của bậc quân thượng, nên gọi là tục’, đó là giải thích chuyện phong tục vậy. Phong mà đối với tục thì ít sai khác, nếu tán ra thì nghĩa thông nhau”( ). Như vậy, có thế nói “phong tục” là nói đến truyền thống văn hóa, tập quán tín ngưỡng, trong đó thiên về đạo đức của Nho giáo (ngũ thường), nhưng gắn với yếu tố địa lí (thủy thổ). Tiền biên đổi thành “dân tục” tuy gần nghĩa, nhưng dường như cũng mất đi phần nào ý nghĩa “truyền thống”, “thủy thổ”. Nói “phong tục phú phụ”, tác giả bài chiếu đã thể hiện nhận thức và ý nguyện về sự đa dạng, giàu có về mặt văn hóa của đất nước. Cuối thế kỉ XIV – đầu thế kỉ XV, Hồ Quý Li có mượn một bài thơ của sứ thần Nhật Bản, đổi một số chữ để khẳng định: “An Nam phong tục thuần” (Phong tục An Nam thuần hậu) [Đáp Bắc nhân vấn An Nam phong tục]. Sau đó không lâu, Nguyễn Trãi cũng nói: “Nam Bắc phong tục diệc dị” (Phong tục Bắc Nam cũng khác) [Bình Ngô đại cáo]. Như vậy, đây là mối quan tâm chung của nhiều đấng quân chủ, trí thức đương thời, trong đó có tác giả Thiên đô chiếu, thể hiện tầm nhìn văn hóa của họ.
2.2. Nguyên nhân phải dời đô khỏi Hoa Lư: bài học lịch sử gần.
Tác giả bài chiếu đi sâu phân tích nguyên nhân suy vong của các triều đại trước với việc đóng đô ở Hoa Lư: “Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỉ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư. Trí: thế đại phất trường, toán số đoản xúc; bách tính hảo tổn; vạn vật thất nghi”. Chữ đáng chú ý nhất ở đây là “ấp”. “Ấp” có ba nghĩa: 1) là nước, kinh đô; 2) nơi đất phong; 3) đất địa phương (tương đương với huyện) nhưng xưa cũng chỉ thủ phủ, đô thành - lớn nhất thì gọi là “quốc”, nhỏ hơn thì gọi là “đô”, nhỏ hơn nữa thì gọi là “ấp”. Thiên “Quý nhân” sách Lã thị xuân thu chép: “Vua Vũ dời đô một lần thì thành ‘ấp’, dời hai lần thì thành ‘đô’, dời ba lần thì thành ‘quốc’”( ). Rõ ràng, tác giả dùng “ấp” với ý chỉ kinh đô [Hoa Lư] nhưng loại bé nhỏ, trong khi gọi Đại La là “đô” (“cố đô”, “thượng đô”) trong tương quan với “bang” (Việt bang). Cái ý đánh giá thấp Hoa Lư đã rõ. Thêm nữa, theo ông, việc hai nhà không chịu dời đô là vì “theo ý riêng” (tuẫn kỉ tư), “coi thường mệnh trời” (hốt thiên mệnh). Thực chất, ông phê phán con mắt thiển cận, không có tầm chiến lược của hai triều đại. Nhưng cụ thể “ý riêng”ở đây là gì? Xét cách lập luận của tác giả, ta có thể suy đoán, tác giả dường như muốn phê phán việc lựa chọn kinh đô của hai nhà không thể theo nguyện vọng của toàn dân, của “muôn vật” và của “ý trời”. Theo Toàn thư, Đinh Tiên Hoàng là “người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng”. Sách này cũng cho biết trước khi đóng đô ở Hoa Lư, Đinh Tiên Hoàng “muốn đóng đô ở thôn Đàm, nhưng cho là nơi ấy chật hẹp, lại không có lợi thế nên dời sang động Hoa Lư, đặt kinh đô mới…”( ). Sự lựa chọn đó tuy đã có tính toán nhưng chưa thoát khỏi tình cảm riêng (tình cảm quê hương) và dựa trên tư duy quân sự. Lê Hoàn (người huyện Thanh Liêm, Hà Nam, lớn lên ở Thanh Hóa) lên ngôi thay nhà Đinh vẫn không sửa chữa “sai lầm” đó. Có thể nói, “sai lầm” của Đinh Tiên Hoàng, Lê Hoàn không hiếm trong lịch sử. Sử gia Ngô Thì Sĩ đã chỉ ra ví dụ về việc nhà Hồ bỏ đất Thăng Long trở về Thanh Hóa cũng vì mục đích “cố thủ” nơi quê hương. Có thể lấy hai ví dụ khác: nhà Mạc có ý định dời đô về quê Cổ Trai (Dương Kinh), nhà Tây Sơn cũng có ý định dời đô về quê Nghệ An (Phượng Hoàng Trung đô). Và điều trùng hợp kì lạ là các triều đại này đều không tồn tại được lâu. Kinh đô Hoa Lư của nhà Đinh, nhà Tiền Lê rõ ràng là bất lợi. Tác giả bài chiếu không nhắc đến những “bất lợi” cụ thể của kinh đô cũ, nhưng qua lời các sử gia, được biết “thành Hoa Lư chật hẹp, không đủ làm chỗ ở của đế vương”. Sứ thần nhà Tống là Tống Cảo sang Hoa Lư năm 990 cũng thấy: “...Trong thành không có dân ở, chỉ vài trăm khu nhà tre lợp gianh dùng làm trại lính. .. Số quân thì có độ 3.000 người, đều in lên trán ba chữ Thiên tử quân...” [Giao Chỉ truyện]. Tất nhiên, Tống Cảo có thể nhìn bằng con mắt kì thị của “Thượng quốc”, nhưng chắc ông cũng không xuyên tạc quá đáng nếu như ta đọc kĩ sử sách Việt viết về Hoa Lư.
Hẳn tác giả bài chiếu cho rằng địa thế nơi đây không còn đáp ứng được yêu cầu phát triển mới của đất nước, của dân tộc. Tác giả cũng đặc biệt nhấn mạnh đến hậu quả của đường lối sai lầm đó: “nối đời chẳng dài, vận số ngắn ngủi; trăm họ tổn hao, muôn vật chẳng hợp”. Sự nhấn mạnh này đem lại hiệu quả thuyết phục lớn. Nó cho thấy tính cấp bách của việc phải dời đô, đồng thời chứng tỏ sự quan tâm chân thành, cái nhìn cảm thông sâu sắc của vị đế vương đến khó khăn của “trăm họ” (bách tính), “muôn vật” (vạn vật). Chính điều này dẫn đến quyết định dứt khoát, vừa đầy lí tính vừa đầy cảm xúc: “Trẫm rất đau đớn, không thể không dời!”. Trên thực tế, Lí Công Uẩn đã làm như vậy. Có thể nói, ngay sau khi lên ngôi (1010), Lí Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Đại La thành. Theo Toàn thư, Thiên đô chiếu được viết vào quãng từ tháng 2 đến tháng 7 năm 1010. Thiên đô chiếu là sự kết hợp tinh thần thời đại, hoàn cảnh lịch sử của đất nước và trí tuệ sáng suốt của nhà vua. Sử cũ cho biết, vừa lên ngôi (1009) Lí Công Uẩn đã tiến hành một số công việc như: đại xá cho thiên hạ, đốt lưới đi săn, bãi việc kiện tụng, tự mình xử án; truy tôn mĩ hiệu, vương tước cho cha mẹ, lập hoàng hậu, phong quan tước cho người thân và người có công, ban thưởng cho các tăng đạo, người già; về châu Cổ Pháp, bái yết sơn lăng; sai sứ sang nước Tống xin sắc phong; ban Thiên đô chiếu (?),v.v… Như vậy, ban bố Thiên đô chiếu (nếu có), quyết định dời đô là một việc làm nằm trong chuỗi các động thái nhằm củng cố triều đại mới và xây dựng đất nước. Những công việc này thực sự cấp thiết bởi lẽ khi lên ngôi, Lí Công Uẩn gặp vô vàn những khó khăn, vướng mắc. Trước mắt là khó khăn do tiền triều để lại. Những gì Lí Công Uẩn tiếp nhận từ triều đại cũ là một chính quyền suy yếu, một đất nước bị chia rẽ dưới tay ông vua tàn bạo, bất lực (theo chính sử) – Lê Ngọa Triều! Những chính sách độc đoán, thiển cận, những hành động trái “đạo lí” của ông ta (theo chính sử) đã khiến lòng dân oán ghét, li tán, đất nước suy vi. Nhìn rộng ra, đó là những khó khăn do cả một giai đoạn lịch sử trước để lại. Sau khoảng một nghìn năm “Bắc thuộc”, bị thống trị, đồng hóa, bóc lột, Đại Việt mới giành được độc lập với một xuất phát điểm rất thấp, thậm chí có những lĩnh vực phải gây dựng từ đầu. Trên thực tế, kể từ khi bước vào thời kì tự chủ (năm 938) cho đến khi Lí Công Uẩn lên ngôi, đất nước ta chưa bao giờ có được một sự ổn định lâu dài. Các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê nối tiếp thay thế nhau trong một thời gian khá ngắn ngủi. Trong mỗi triều đại, chưa kể những cuộc xâm lược, quấy rối của các thế lực bên ngoài (cả phương Bắc lẫn phương Nam và phía Tây), có khá nhiều cuộc nội loạn, cát cứ, tranh giành,… xảy ra liên tiếp cản trở mọi nỗ lực thống nhất đất nước, xây dựng nền hòa bình lâu dài cho dân tộc. Các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê về cơ bản vẫn là những chính quyền quân sự, đứng vững dựa trên sức mạnh quân sự là chủ yếu. Các triều đại này chưa chú ý đúng mức và cũng chưa thực sự có điều kiện xây dựng chính quyền dân sự, xây dựng nền tảng văn hóa, xã hội bền vững cho đất nước. Một phần của thiếu sót đó thể hiện ở sự lựa chọn kinh đô, đặc biệt là của hai triều Đinh và Tiền Lê. Đứng trước những khó khăn đó, những động thái mà Lí Công Uẩn tiến hành vừa giải quyết nhiệm vụ trước mắt (củng cố chính quyền) vừa nhắm tới mục tiêu lâu dài (tạo nền tảng cho đời sau). Đây là công lao rất to lớn của Lí Công Uẩn đối với đất nước mà việc dời đô chỉ là một phần, đúng như có ý kiến nhận xét: “Lí Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long đã thực sự góp phần củng cố sự thống nhất quốc gia, làm cho chính quyền trung ương càng có thêm uy lực để cai quản các địa phương trong toàn quốc. Và Thiên đô chiếu cũng đánh dấu một bước nhận thức quan trọng của dân tộc ta về những vấn đề kinh tế, chính trị và văn hóa do đời sống thực tiễn đặt ra, trước hết là vấn đề tiền đồ phát triển của đất nước và sự thống nhất đất nước”( )
Ngoài ra, thực chất, việc dời đô nhanh chóng còn thể hiện một quy luật: mỗi triều đại mới lên (thay triều đại cũ một cách trực tiếp) thường có xu hướng tránh xa trung tâm ảnh hưởng/ trung tâm quyền lực của triều đại cũ mà tiêu biểu nhất chính là kinh đô của nó, nhằm loại bỏ, tránh xa “tàn dư” của sự chống đối. Bên cạnh đó, triều đại ấy lại có xu hướng trở về gần vùng đất “phát tích” để tranh thủ sự hậu thuẫn, ủng hộ, ít nhất là về mặt tinh thần, tâm linh. Quy luật này càng đúng với các cuộc “thay đổi dòng họ” không hòa bình, nhất là các cuộc “tiếm ngôi”, “thí nghịch” (theo quan điểm của sử gia phong kiến) như ở các triều đại: Hồ, Mạc, Tây Sơn. Ngay cả chúa Trịnh Doanh chỉ mới có ý định “tiếm ngôi” nhà Lê thôi đã nghĩ ngay đến việc “thiên đô’ từ Thăng Long sang Cổ Bi (nay thuộc huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội), vốn là quê của mẹ Trịnh Cương, bà ngoại Trịnh Doanh. Việc dời đô của Lí Công Uẩn cũng không nằm ngoài quy luật đó. Tuy việc lên ngôi của Lí Công Uẩn được chính sử mô tả là “bất đắc dĩ” và diễn ra khá thuận lợi, êm đẹp do sự ủng hộ cao của quần thần nhưng thực chất đây vẫn là một cuộc “tiếm ngôi”, “tranh quyền đoạt vị”. Trước đó, không phải là không có những thế lực ngăn cản, chống đối quyết liệt. Việc Lê Ngọa Triều lấy cớ “ăn quả khế thấy hột mận mới tin lời sấm ngữ” bèn ngầm bắt giết những người họ Lí là một ví dụ. Cuộc đổi ngôi là kết quả một quá trình chuẩn bị, vận động lâu dài và khá khôn khéo của Lí Công Uẩn và những người ủng hộ ông: từ những lời sấm kí của Lí Vạn Hạnh đến lời khuyến khích của Đào Cam Mộc, từ những hiện tượng kì lạ ở châu Cổ Pháp đến cái chết “bất thường” của Lê Ngọa Triều,v.v…Trong Toàn thư có ghi rõ việc Vạn Hạnh tiên báo và khuyến khích Lí Công Uẩn lên ngôi, Lí Công Uẩn “sợ câu nói ấy tiết lộ, bảo người anh đem Vạn Hạnh giấu ở Tiêu Sơn”( ). Đào Cam Mộc khuyên Lí Công Uẩn lên ngôi, ông cũng phải thận trọng dò xét hai ba lượt. Như thế đủ thấy tính nghiêm trọng của sự việc. Đó là chưa kể, theo sử gia Ngô Thì Sĩ, có người cho rằng chính “Lí Công Uẩn địa vị danh vọng ngày một cao, trong ngoài đều đã có tâm phúc, Lí Công Uẩn lại rất căm phẫn về tội ác giết anh cướp ngôi của Khai Minh vương, nhân lúc Khai Minh Vương bệnh tật, sai người vào đầu độc giết đi rồi giấu kín, nên sử không được chép”( ). Tai tiếng của Lê Ngọa Triều phải chăng một phần cũng là do hệ quả của sự tranh chấp quyền lực đó. Sự quyết liệt trong việc chuyển giao quyền lực hẳn có tác động phần nào đến quyết định dời đô của Lí Công Uẩn. Điều đáng ca ngợi ở Lí Công Uẩn là ở chỗ ông đã chọn Đại La thành chứ không phải một nơi nào khác (như quê hương Cổ Pháp chẳng hạn) để định đô. Nhận xét về quyết định dời đô của Lí Công Uẩn, chính Ngô Thì Sĩ đã đánh giá khá xác đáng rằng: “Lí Công Uẩn lên ngôi, chưa vội làm việc khác, mà trước tiên mưu tính việc định đô, đặt đỉnh, xét về sự quyết đoán, sáng suốt, mưu kế anh hùng, thực những vua tầm thường không thể theo kịp”( ). Bên cạnh đó, có thể nói đến một nguyên nhân là vai trò của Phật giáo trong việc dời đô ra Đại La. Ai cũng biết Vạn Hạnh là người có công rất lớn đưa Lí Công Uẩn lên ngôi. Vì sao vậy? Người ta đã nói nhiều đến mối quan hệ gần gũi giữa Lí Công Uẩn và Vạn Hạnh, từ khi sinh ra cho đến khi thành Thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ. Nhưng liệu còn nguyên nhân nào khác? Vì sao từ việc ủng hộ nhà Tiền Lê, Vạn Hạnh quay sang ủng hộ họ Lí? Điều này có lẽ có liên quan đến các chính sách của nhà Tiền Lê với Phật giáo nói chung. Lê Hoàn, Lê Long Việt đều sùng thượng Phật giáo. Nhưng đến Lê Ngọa Triều, tình có khác. Theo nghiên cứu của Tạ Chí Đại Trường, Lê Ngọa Triều là một ông vua chủ trương “chuyên chế” theo kiểu nhà Tống, tức là lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng. Vì vậy, đương nhiên nó đe dọa vị thế của Phật giáo. Cũng theo nhà sử học này, “Long Đĩnh đã gặp sự chống đối trong chương trình xây dựng (hiện đại hóa) để củng cố địa vị chuyên chế của ông. Câu chuyện róc mía trên đầu nhà sư đối với người sau, khi vai trò của nhà sư đã trở thành bình thường hay sa sút, câu chuyện đó chỉ có ý nghĩa là một hành động tàn ác của một cá nhân điên loạn cầm quyền. Nhưng đặt vào giai đoạn tăng sĩ có quan chức như ta đã thấy thì đó là chứng cớ của sự đàn áp một lực lượng, một tập thể, một ý thức hệ; đó là sự đàn áp gây ra bởi ý thức Nho giáo chủ trương quyền độc tôn về ngôi vị Hoàng đế. Hoàn cảnh lịch sử đã tạo ra một vị Hoàng đế - tù trưởng với những hành động khắc bạc, “tàn bạo”, nạn nhân của lí tưởng muốn vươn tới và thực tế xã hội vây quanh sự hạn chế của cá nhân ông ta. Thiền sư Vạn Hạnh bỏ nhà Lê, lao tâm khổ tứ mưu đồ cho sự nghiệp của Lí Công Uẩn hẳn là có lí do chính đáng”( ).
2.3. Thành Đại La (Thăng Long) và triển vọng lâu dài của triều đại, đất nước
Khi nhắc đến Đại La thành, đầu tiên tác giả nhắc đến “Cao Vương cố đô”. Ai cũng biết“Cao Vương” tức Cao Biền (821–887) là một viên tướng của nhà Đường, ông là người thay mặt cho nhà Đường cai quản Giao Châu, từ năm 866 đến năm 875 với chức vụ Tiết độ sứ. Nhưng vì sao tác giả lại gọi Cao Biền là “Cao Vương”. Vấn đề này còn tranh cãi. Theo Sử kí (lời bình của Lê Văn Hưu), Sử lược và Toàn thư, ở Giao Châu ông tự xưng “vương”. Tuy nhiên, các sách Trung Hoa (như “Cao Biền truyện” trong Tân Đường thư chẳng hạn) đều không chép việc xưng vương này. Cương mục thì cho rằng: “người Giao Châu kinh sợ Biền mà gọi Biền là Cao Vương”( ). Lập luận này dựa trên cơ sở, ngoài Cao Biền, Sĩ Nhiếp cũng được tôn là “Sĩ Vương” (Sử lược, Toàn thư). Điều này cho thấy, cái nhìn đương thời với các quan lại nhà Hán, Đường sang cai trị Giao Chỉ, Giao Châu còn phóng khoáng, hồn nhiên; nhân vật nào có “công”, có “đức”, và có “uy” thì được tôn xưng là “vương”, thậm chí được coi là người Việt. Chẳng hạn, cho đến trước thế kỉ XVIII, Triệu Vũ đế (Triệu Đà) vẫn được liệt vào quốc thống Đại Việt (phần Ngoại kỉ); Nguyễn Trãi vẫn viết: “Tự Triệu, Đinh, Lí, Trần,…” (Bình Ngô đại cáo), Ngô Sĩ Liên và một số sử thần Lê vẫn viết riêng một “Kỉ nhà Triệu” trong phần Ngoại kỉ. Ngô Thì Sĩ là người đầu tiên đề nghị đưa Triệu Đà khỏi quốc thống (xem Tiền biên, Tiêu án), không gọi Sĩ Nhiếp là “Sĩ Vương” (ông phê phán kịch liệt việc này) và Cương mục hưởng ứng theo. Cũng chính ông đã sửa câu “Cao Vương cố đô Đại La thành…” thành: “Duy Đại La thành….” (Tiêu án) bỏ hẳn chữ “Cao Vương”. Cương mục thì gọi thẳng “Cao Vương” là “Cao Biền” rõ ràng với dụng ý hạ cấp, phân biệt. Tác giả bài chiếu gọi “Cao Vương” là trong bối cảnh đương thời, ta cần có cái nhìn lịch sử. Cũng có thể, cách gọi “Vương” phản ánh quan điểm của các nhà Nho chép sử trước thế kỉ XVIII. Theo chúng tôi, có thể Cao Biền tự xưng vương thật, bởi các sách Sử kí, Sử lược là đáng tin cậy. Lúc bấy giờ, Trung Hoa rối ren, Cao Biền có thể chuyên giữ một vùng nên chuyên quyền “tiếm xưng”. Hơn nữa, phải chăng sách vở Trung Hoa viết về Cao Biền cho đó là “tiếm hiệu” nên không chép? Các vua Đại Việt trên thực tế xưng đế, nhưng trong các tư liệu Trung Hoa vẫn được gọi là “Vương” thậm chí chỉ là Tiết độ sứ. Sử lược lưu truyền ở Trung Hoa cũng bị “san định” những chỗ đại loại như thế. Hồ Nguyên Trừng làm quan ở Trung Hoa phải gọi các Hoàng đế nhà Trần là “Vương” (Nam Ông mộc lục). Trong gần nghìn năm Bắc thuộc, có nhiều quan lại Trung Hoa cai trị Đại Việt, có “công”, “đức”, “uy”, tại sao không được tôn làm “vương”? Nếu vậy, tác giả bài chiếu gọi ông ta là “vương” là có cơ sở thực tế, xét từ thực tiễn và không nên đòi hỏi ông phải giống các sử quan thế kỉ XVIII - XIX. Tuy nhiên, một điều đáng lưu ý là trong các sử thư trước thế kỉ XV, ta chưa thấy thuật ngữ “Cao Vương”! Cao Biền có công lớn trong việc mở rộng thành Đại La. Theo chính sử, Đại La thành tức La Thành, ban đầu do Trương Bá Nghi cho đắp từ năm Đại Lịch thứ 2 đời Đường Đại Tông (767), năm Trinh Nguyên thứ 7 đời Đường Đức Tông (791), Triệu Xương đắp thêm. Đến năm Nguyên Hòa thứ 3 đời Đường Hiến Tông (808), Trương Chu lại sửa đắp lại, năm Trường Khánh thứ 4 đời Đường Mục Tông (824), Lý Nguyên Gia dời phủ trị tới bên sông Tô Lịch, đắp một cái thành nhỏ, gọi là La Thành (Sử lược, Toàn thư). Theo Từ Hải, “La thành” để chỉ vòng thành lớn bên ngoài của một tòa thành. Thời Đường, quân Cao Biền đánh Tứ Xuyên, đắp La Thành ở vòng thành lớn ngoài thành Thành Đô (Phương Dư kỉ yếu)( ). Về việc này Tiền biên cũng cho biết: “Biền đến đâu cũng thích xây thành. Thành xây bằng đá gạch vững chắc. Khi xây La Thành ở đất Thục gặp gò đống đều phải san phẳng…”( ). Cũng chính Cao Biền đã cho đắp lại La Thành ở An Nam đô hộ phủ to lớn hơn, kiên cố hơn vào khoảng năm 864 – 866 (Sử lược). Có lẽ vì vậy là “La Thành” được gọi là “Đại La thành” (La thành lớn). Trên thực tế, cái tên “Đại La Thành” vẫn còn tồn tại suốt các thời Lí, Trần, Lê với tư cách là vòng thành lũy bên ngoài lớn nhất của kinh thành Thăng Long (Sử lược, Toàn thư, Cương mục). Ở đây, có thể nói Cao Biền là người có công đắp tòa thành lớn nhất, định hình cho Đại La thành. Sử lược và đặc biệt là Toàn thư có chép việc: “Giáp Thìn, [824], (…). Mùa đông, tháng 11, Lý Nguyên Gia thấy trước cửa thành có dòng nước chảy ngược, sợ trong châu nhiều người sinh lòng làm phản, vì thế dời đến đóng ở thành hiện nay. (Bấy giờ Nguyên Gia dời phủ trị đến sông Tô Lịch, mới đắp thành nhỏ thôi, có người thầy tướng bảo rằng: Sức ông không đắp nổi thành lớn, sau 50 năm nữa ắt có người họ Cao đến đây đóng đô dựng phủ. Đến đời Hàm Thông [860 - 874], Cao Biền đắp thêm La Thành, đúng như lời người ấy. Lại xét: Phủ thành đô hộ trước đó ở ngoài thành Đông Quan ngày nay, gọi là La Thành, sau Cao Biền đắp thành hiện nay, thành bên ngoài cũng gọi là La Thành)( ). Vậy việc Lí Công Uẩn đổi tên “Đại La thành” thành “Thăng Long thành” là nói việc đặt tên cho cả vùng đất kinh đô mới, chứ không phải cho một tòa (hay một vòng) thành cụ thể. Việc gọi “Cao Vương cố đô Đại La thành” chỉ là quy ước chỉ một vùng đất mà sau này được đổi tên thành Thăng Long mà thôi. Như vậy, từ lâu, Đại La thành đã gắn với những truyền thuyết và niềm tin về tính chất “đất thiêng” (địa linh) của nó. Những phân tích tiếp theo của tác giả bài chiếu làm rõ hơn điều đó. Chẳng hạn, sự phân tích về mặt phong thủy tương đối huyền bí (có sức thuyết phục rất lớn trong phạm vi tín ngưỡng, văn hóa của người Trung đại) cũng đã được vận dụng để chỉ ra “quý địa”, “đắc địa”: “trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế; chính Nam Bắc, Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bối chi nghi”. Thiên địa khu vực chi trung chỉ nơi ở giữa khu vực của đất trời. Đây là nhìn theo trục dọc. Nhìn theo cái nhìn vũ trụ và tâm linh của “tam vị”, “tam tài” (Thiên, Địa, Nhân) thì đây là “Nhân”, nghĩa là chỗ thích hợp của con người, hợp với đạo Trung. Còn Long bàn hổ cứ chi thế có lẽ tác giả lấy từ sách Ngô lục của Ngô Lặc thời Tấn: “Lưu Bị từng sai Gia Cát Lượng đến đất Ngô, nhân nhìn đồi núi ở Mạt Lăng, Gia Cát Lượng phải thốt lên: “Chung Sơn rồng cuộn, Thạch Đầu hổ ngồi, đây là chỗ ở của đế vương” (Chung Sơn long bàn, Thạch Đầu hổ cứ, thử đế vương chi trạch) . Lại theo thuật phong thuỷ, bất cứ một ngôi nhà hay cung điện, miếu sở,… gì thì ở phía trước gọi là Chu Tước, nên thuộc hướng Nam, hành Hỏa. Phía trái (từ trong nhìn ra) gọi là Bạch Hổ, nên thuộc hướng Tây, hành Kim. Phía phải gọi là Thanh Long, nên thuộc hướng Đông, hành Mộc. Phía sau gọi là Huyền Vũ, nên thuộc hướng Bắc, hành Thuỷ. Như vậy, ở đây Đại La thành, hướng Tây (Bạch Hổ) có thế như hổ ngồi (tức có núi, đồi cao) vững vàng; hướng Đông (Thanh Long) có thế như rồng uốn (tức có núi, sông,… tạo thành “mạch”) uyển chuyển, uốn khúc. Rồng, hổ lại là vật tượng trưng của anh hùng, đế vương. Theo phong thủy, đây là thế đất đẹp, đắc cách hùng vĩ, đúng là “nơi ở của đế vương” như lời Gia Cát Lượng. Điều đó còn được cụ thể hóa bằng các đặc điểm:
- Chính Đông Tây Nam Bắc chi vị, nghĩa là: ở vị trí chính giữa Nam, Bắc, Đông, Tây. Theo quan niệm xưa, như thế tức là ở “trung ương”. “Trung ương” mệnh thổ, màu là màu vàng, ứng hợp với vị thế của vua.
- Sơn hà hướng bối chi nghi theo thuật phong thủy, bất cứ một ngôi nhà hay cung điện, miếu sở,… gì thì cần có thế: phía sau tựa (tọa) vào chỗ cao ráo, vững chãi (núi, đồi), phía trước nhìn (hướng) ra xa, bằng phẳng có sông nước càng tốt (vừa lưu chuyển, hanh thông vừa tụ khí lành).
Rõ ràng, Đại La thành được cái lợi rất mực đó, nên tác giả đánh giá: Kì địa quảng nhi thản bình; quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong (Đất ấy rộng mà bằng phẳng; nơi ấy cao mà khô thoáng. Dân cư không khốn vì thấp tối; muôn vật cực thịnh bởi mỡ màu). Bỏ qua tính chất huyền bí của thuật phong thủy, ta có thể thấy rõ “lợi thế” của Đại La thành: ở vị trí trung tâm quan yếu, nơi tụ hội của bốn phương, tiện đường đi lại, đất cao rộng, bằng phẳng, dân cư đông đúc, phồn vinh, sản vật phong phú, tốt tươi. Đây là những yếu tố hết sức cần thiết cho kinh đô của một quốc gia vững mạnh, trưởng thành. Đúng như sử thần Ngô Thì Sĩ sau này đã nhận xét: “Đất Long Đỗ là nơi Cao Biền đóng ở đấy, núi Tản Viên chống vững một cõi, sông Phú Lương như hào trời sinh ra, ngàn dặm bằng phẳng, trăm họ giàu có; phía Tây thông với Sơn Tây, Tuyên Hưng; phía Bắc thấu đến Ninh Sóc, Kinh Bắc. Miền Đông Nam thì vận chuyển bằng thuyền, miền Cần Xương thì liên lạc bằng trạm, là nơi trung tâm của bốn phương chầu về, núi là vạt áo che, sông là dải đai thắt, sau lưng là sông, trước mặt là biển, địa thế hùng mạnh mà hiểm, rộng mà dài, có thể làm cho nơi vua ở hùng tráng, ngôi báu vững bền. Hình thế nước Việt thật không nơi nào bằng được nơi này. Cho nên trước kia, nhà Đinh nhà Lê bỏ đất đó mà ở Hoa Lư, sau đó hai nhà Hồ cũng bỏ đất đó mà ở An Tôn thì đời làm vua ngắn ngủi, thân bị bắt, nước bị mất, là vì ông được địa lợi đấy!”( ) Khi nêu ra những thuận lợi này, bài chiếu đã ngầm so sánh với “bất lợi” của kinh đô cũ: chật hẹp, trũng thấp, bất tiện, hẻo lánh. Kinh đô cũ chỉ tiện cho việc phòng thủ, cố thủ, tức là chỉ “tiện lợi” về phương diện quân sự. Nhà Đinh, nhà Tiền Lê đã quan niệm về kinh đô như một trung tâm quân sự thuần túy. Nó phản ánh tính chất nhà nước quân sự của triều Đinh và triều Tiền Lê, một hình thức nhà nước còn sơ khai, đơn giản không còn thích hợp với thời cơ, vận hội mới của đất nước. Chính sử từng mô tả kiểu điều hành đất nước khá thô sơ thời Đinh như sau: “Nhà vua muốn lấy uy để trị thiên hạ, bèn đặt vạc lớn giữa sân, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh: người nào trái phép sẽ phải chịu tội bỏ vào vạc nấu, hoặc cho hổ ăn thịt. Mọi người đều sợ phục, không ai dám can phạm”( ). Đinh Tiên Hoàng là người có công xóa loạn 12 (?) sứ quân, xóa bỏ nạn cát cứ, thống nhất đất nước. Nhưng việc ông vẫn đóng đô ở Hoa Lư cho thấy tàn tích của tư tưởng “cát cứ” vẫn còn. Triều Tiền Lê vẫn chưa kịp xóa bỏ hết tàn tích ấy. Phân tích của một số nhà sử học gần đây đã cho thấy điều đó. Từ sự phân tích của tác giả bài chiếu về “địa lợi” của Đại La thành, ta thấy rõ quan niệm của ông về kinh đô, về nhà nước. Đối với ông, kinh đô của một nhà nước hoàn chỉnh phải là một trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, quân sự,… của cả nước. Điều này phản ánh sự trưởng thành về mặt ý thức, sự tự tin vào thực lực của chính quyền trung ương đối với các địa phương, của vương triều và của cả đất nước đối với nước ngoài. Nó cũng thể hiện khát vọng vươn lên xây dựng một quốc gia vững mạnh, tự chủ và lâu dài. Hơn thế nữa, ta biết trung tâm Phật giáo thời bấy giờ không phải ở Hoa Lư mà là ở phía Bắc, tập trung quanh hai sơn môn Dâu (Cổ Pháp, Bắc Ninh) và Kiến Sơ (Phù Đổng), rồi Pháp Vân (Thanh Đàm). Đọc Thiền uyển tập anh ngữ lục, ta có thể thấy rõ điều đó. Vì vậy, kéo kinh đô về gần các trung tâm Phật giáo, phải chăng cũng là một động lực cho các cuộc “vận động hành lang” (nếu có). Vì vậy, ta không lấy làm ngạc nhiên khi vừa dời đô đến Đại La, Lí Công Uẩn đã sai sửa sang đền đài, cung điện và đặt biệt là xây nhiều chùa chiền ở kinh đô mới, để đến nỗi các sử quan Nho gia thời sau đều lên tiếng phê phán. Chẳng hạn, Lê Văn Hưu viết: “Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm tăng hơn nghìn người ở Kinh sư, thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể. Của không phải là trời mưa xuống, sức không phải là thần làm thay, há chẳng phải là vét màu mỡ của dân ư? Vét máu mỡ của dân có thể gọi là làm việc phúc chăng? Bậc vua sáng nghiệp, tự mình cần kiệm, còn lo cho con cháu xa xỉ lười biếng, thế mà Thái Tổ để phép lại như thế, chả trách đời sau xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa đá, điện thờ Phật, lộng lẫy hơn cung vua. Rồi người dưới bắt chước, có kẻ hủy thân thể, đổi lối mặc, bỏ sản nghiệp, trốn thân thích, dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước chỗ nào cũng chùa chiền, nguồn gốc há chẳng phải từ đấy?”( )v.v…
Trên đây là những cơ sở để tác giả bài chiếu đi đến khẳng định: “Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa; thành tứ phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn thế kinh sư chi thượng đô”. Ở đây có một vài chữ cần chú ý: yếu hội, tứ phương bức thấu, vạn thế kinh sư, thượng đô.
- Yếu hội: Thiên “Thiên quan tiểu tể” sách Chu lễ có câu: “Xét sự vào ra để nắm bắt, thâu tóm”. Lời chú rằng, Trịnh Tư Nông nói: “Yếu hội, là nói đến sổ sách kiểm kê. Kiểm kê hàng tháng thì gọi là yếu; kiểm kê hàng năm thì gọi là hội”. Tôn Di Nhượng giải thích: “Kiểm kê một tháng thì việc ít, nên chỉ cần nêu lên cái cốt yếu, vì vậy gọi là yếu. Kiểm kê một năm thì việc nhiều, ắt phải gom góp lại mà kiểm tra, đối chiếu, vì thế gọi là hội”( ). Vậy “yếu hội” là sự thâu tóm chỗ then chốt, quan yếu.
- Tứ phương bức thấu: chỉ sự quy tụ, then chốt của bốn phương. “Truyện Thúc Tôn” trong sách Hán thư có câu: “Tứ phương bức thấu”. Chú rằng: “Thấu tức là quy tụ, ví như nan hoa của bánh xe chụm về ổ trục vậy”( ). Như vậy, “tứ phương bức thấu” cũng chỉ ra tính chất trung tâm tụ hội bốn phương của kinh đô.
- “Vạn thế kinh sư chi thượng đô” thoạt xem có vẻ trùng lặp, khó hiểu! Bởi vậy, nó được Bùi Huy Bích chữa thành “vạn thế đế vương chi thượng đô” (sự sửa chữa này được Cương mục học tập). “Vạn thế đế vương chi thượng đô” thì có vẻ xuôi hơn về âm hưởng, lại có vần, và có nghĩa khá hợp lí “thượng đô của đế vương muôn đời”. Nhưng liệu đó có phải là bản ý của tác giả? Và “kinh sư chi thượng đô” liệu có ý nghĩa gì? Theo chúng tôi, chữ “kinh sư” có nghĩa lí riêng sâu sắc của nó. “Kinh” chỉ nơi cao ráo, lại có nghĩa là to lớn. “Sư” chỉ sự đông đúc. Sách Công Dương truyện (Hoàn Công cửu niên) có câu: “Kinh sư là gì? Là chỗ ở của thiên tử. Kinh là gì? Kinh là to lớn. Sư là gì? Sư là đông đúc. Chỗ ở của thiên tử ắt phải lấy đông đúc, to lớn mà ví”. Có thuyết của Cố Viêm Vũ (Triệu vực chí) lại giải thích xưa ở huyện Phượng Dương tỉnh Hiệp Tây có núi Kinh và sông Sư, Chu Văn Vương định đô ở đây, nên có tên là “kinh sư”, nhưng thuyết này chưa được kiểm chứng minh xác hoàn toàn. Đây theo cách giải thích thứ nhất. Như thế, ở đây có thể dịch theo hai phương án: “kinh sư” là kinh đô; hoặc “kinh sư” là “to lớn, đông đúc”. “Thượng đô” có hai nghĩa: 1) chỉ kinh đô nói chung, như bài Tây đô phú của Ban Cố có câu: “thực dụng Tây thiên, tác ngã Thượng đô” (chuyển về phía Tây là thực tế, để xây nên kinh đô của ta). Lời chú rằng: Thượng đô là Tây kinh, chỉ Trường An; 2) xưa nói “thượng đô” trong quan hệ với kinh đô phụ (“bồi đô” hay còn gọi là “hạ đô”). Thượng đô là kinh đô số một, hay thủ đô( ). Ở đây, “thượng đô” phải hiểu là kinh đô bậc nhất, hay thủ đô số một. Và như vậy “vạn thế kinh sư chi thượng đô” có thể dịch là: “kinh đô to lớn, đông đúc của muôn đời” hoặc “kinh đô bậc nhất trong [các kinh đô] muôn đời. Ở đây, chúng tôi thiên về cách dịch thứ hai. Ý của tác giả bài chiếu ở đây là khẳng định giá trị “kinh đô bậc nhất” (thượng đô) của La Thành so với các “kinh đô/ kinh sư muôn đời” chứ không phải nói về “kinh đô của đế vương muôn đời”. “Kinh đô của đế vương muôn đời” là cách diễn dịch, diễn giải theo lối dân tộc chủ nghĩa và nặng tinh thần phong kiến (“đế vương”) chứ không phải ý của tác giả. Ông chỉ muốn nói đến giá trị “bậc nhất” của nó, chứ không nói đến “muôn đời” của các triều đại, các đế vương.
Câu cuối bài chiếu cũng rất quan trọng: Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư. Khanh đẳng như hà? Câu này, Ngô Thì Sĩ chữa thành “khanh đẳng hữu sở khả phủ, tất minh cáo trẫm” (Các khanh thấy có khả năng hay không? Hãy nói rõ hết cho trẫm biết), nghe đậm tính “khẩu ngữ”. Bùi Huy Bích bỏ câu cuối cùng “khanh đẳng như hà?”. Dường như, họ Bùi muốn bỏ đi dấu ấn “khẩu ngữ” giản dị của bài chiếu. Cũng có ý kiến cho rằng, Bùi Huy Bích bỏ là đúng bởi đó là câu không có trong bài thủ chiếu. Cương mục chỗ này không làm theo cách họ Bùi làm mà phát triển thêm thành một câu đặc phong cách văn ngôn: “khanh đẳng dĩ vi hà như?”, dường như lại để minh chứng rằng đây là “khẩu dụ” được dịch ra văn ngôn, như thường thấy. Đó còn là hệ quả của một giai đoạn sùng Nho giáo, chuộng chuẩn mực Hán hóa, chuộng “văn ngôn”. Trong khi đó, Hán văn thời Lí mộc mạc, gần khẩu ngữ đời thường hơn nhiều (xem Thiền uyển tập anh ngữ lục). Cách nói: “Khanh đẳng như hà?” gợi nhớ đến cách nói: “Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?” trong bài Nam quốc sơn hà. Rõ ràng, cái nhìn của tác giả bài chiếu là cái nhìn hướng về tương lai, không chỉ nghĩ cho vương triều Lí mà còn dụng ý lo nghĩ cho muôn đời sau.
3. Thay phần kết
Thiên đô chiếu là một thành tựu của văn chính luận Việt Nam thời trung đại. Đứng về phương diện văn học, đây là một tác phẩm thuộc loại hình “văn học chức năng”. Nhưng không vì thế mà tác phẩm thiếu đi giá trị nghệ thuật nhất định.
Về mặt lập luận, bài chiếu được triển khai theo một bố cục chặt chẽ, logíc. Bố cục của bài chiếu gồm 4 phần rõ rệt: phần 1 nêu “cơ sở lí luận” của việc dời đô, làm căn cứ cho toàn bộ bài chiếu; phần 2 nêu lí do phải dời đô khỏi Hoa Lư; phần 3 nêu lí do chọn kinh đô mới là Đại La thành và phần 4 bày tỏ ý định và tham khảo ý kiến của thần dân. Các phần có quan hệ mật thiết với nhau tạo nên sức mạnh thuyết phục. Chẳng hạn, giữa phần 1 và phần 2, giữa phần 2 và phần 3 có quan hệ đối lập, tương phản, giữa phần 1 và phần 3 lại có quan hệ trùng điệp, tương đồng. Cả ba phần trên lại có quan hệ “nhân - quả” với phần 4 theo kiểu “tam đoạn luận”. Trong từng ý diễn đạt, tác giả bài chiếu cũng có những lập luận khá sắc sảo, thể hiện tư duy lí luận rành mạch, sáng suốt.
Bài chiếu được viết bằng một văn phong sáng sủa, súc tích. Mỗi chữ dùng dường như đều có sự cân nhắc, chọn lựa kĩ càng từ vốn kiến văn uyên bác, phong phú. Câu văn ngắn gọn, chắc nịch, gắn kết mạch lạc. Sự mạch lạc đó không chỉ được biểu hiện qua logíc nội dung mà còn được biểu hiện qua các phương tiện hình thức. Đó là các liên từ: “cố” (vì thế), “nhi” (thế mà), “huống” (huống chi). Đó là các phép tu từ. Chẳng hạn, sự tương phản “ngầm” giữa phần 1 và phần 2, phần 2 và phần 3 được thể hiện qua phép “điệp ngữ”, “phép thế”. Phần 1 nói về mục đích dời đô của cổ nhân, nhấn mạnh “trên kính mệnh trời, dưới thể lòng người”; phần 2 nói nhà Đinh, nhà Lê: “theo ý riêng, lơ mệnh trời”. Phần 2, nói về sự bất tiện của Hoa Lư, tác giả nhấn mạnh hai mặt: “trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp”. Phần 3 nói về sự tiện lợi của Đại La thành, tác giả lại trở lại hai mặt đó nhưng với trạng thái khác hẳn: “dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh”. Việc làm đó tạo cho người đọc sự liên hệ, so sánh ngầm từ đó tự rút ra kết luận cần thiết.
Tuy là công văn hành chính quan phương, mang tầm quốc gia, nhưng ngôn ngữ của bài chiếu lại mang nhiều sắc thái biểu cảm. Đây chính là yếu tố chủ yếu làm nên giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Cảm xúc xuyên suốt của bài chiếu là sự tha thiết, đau đáu, là thái độ cầu thị, khoan hòa nhưng không kém phần quyết đoán, mạnh mẽ. Trong bài chiếu, có những chỗ thể hiện sự bức xúc, dồn nén thực sự. Cảm xúc đó một phần toát ra từ nội dung mà nó đề cập, một phần từ vị thế/ hoặc nhập vai “người trong cuộc” của tác giả. Đó là tâm huyết của một ông vua vì nước, vì dân. Sắc thái biểu cảm của bài chiếu còn được thể hiện qua giọng điệu của tác phẩm. Giọng điệu này được tạo ra nhờ việc sử dụng linh hoạt các kiểu câu, đặc biệt là câu hỏi tu từ và câu hai lần phủ định. Nói về mục các vua thời Tam Đại thiên đô nhiều lần, tác giả dùng câu nghi vấn: “Há mấy vua thời Tam Đại, tự theo ý riêng, chuyển dời xằng bậy?” (Khởi Tam Đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ?). Ở đây, hỏi thực chất là để khẳng định, nhưng sự khẳng định ở đây mang tính “gợi mở”, không tạo cho người đọc cảm giác bị áp đặt nặng nề! Để khẳng định cái ý phải dời đô, tác giả lại dùng câu hai lần phủ định: “không dời không được” (bất đắc bất tỉ). Cách dùng đó làm tăng thêm tính cấp thiết của vấn đề, đồng thời gián tiếp thể hiện được cảm xúc của người viết! Có khi, cảm xúc được biểu hiện trực tiếp qua kiểu câu trần tình: “trẫm rất đau lòng” (trẫm thậm thống chi). Phần cuối bài chiếu cũng góp phần thể hiện giọng điệu tác phẩm. Phần này được viết bằng một giọng văn mềm mỏng, cởi mở khác hẳn các bài chiếu khác. Thông thường, các bài chiếu thường kết thúc bằng một câu mang tính chất mệnh lệnh: “khâm thử”, “khâm tai” (vâng làm theo chiếu này). Nhưng Thiên đô chiếu lại kết thúc bằng một câu hỏi trưng cầu ý kiến: “Trẫm muốn nhân lợi ấy, định chỗ ở lâu bền. Các khanh nghĩ sao?” (Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?). Điều này cho thấy, bài chiếu được viết ra là để thăm dò, thuyết phục hơn là ra lệnh. Đây là một lựa chọn đúng đắn bởi lẽ, vấn đề bài chiếu đặt ra rất trọng đại, hẳn sẽ đụng chạm đến nhiều thế lực chính trị, nhiều luồng ý kiến khác nhau. Trong khi đó, Lí Công Uẩn vừa lên ngôi, chính lệnh chưa hẳn đã hoàn toàn có hiệu lực, người trong nước chưa hẳn đã hoàn toàn “tâm phục, khẩu phục”, họ vẫn đang chăm chú theo dõi từng động thái, từng việc làm của ông trên cương vị tân Hoàng đế.
Thiên đô chiếu là một bài chiếu tiêu biểu của Việt Nam thời trung đại. Bài chiếu đề cập đến một vấn đề khá quan trọng, liên quan đến vận mệnh dân tộc, tương lai đất nước và có giá trị văn học. Bài chiếu thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của tác giả đối với vấn đề dời đô ra Đại La thành, xây dựng một quốc gia vững mạnh, trường tồn. Bài chiếu cũng cho thấy mối liên hệ gắn bó giữa văn chương với vận mệnh đất nước và kinh đô Thăng Long. Chi tiết “rồng vàng hiện ra bên thuyền vua” và việc đổi tên từ Đại La thành thành Thăng Long thành có thể chỉ là một hư cấu văn chương hay một động tác chính trị huyền hoặc (mà cần thiết), nhưng khát vọng vươn lên là niềm tin vào tương lai tươi sáng của kinh đô mới nói riêng và đất nước nói chung là điều có thật và nó ứng hợp khá trọn vẹn và chân thực với những gì đã được thể hiện trong Thiên đô chiếu./.
Hà Nội, tháng 08 năm 2010
N.T.T
[Bài đăng Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 10/2010]
Chú thích
( ) R Welleck và R. Waren (1949). Theory of literature, Harcourt Brace & Company Inc, NewYork, tr.247.
( ) Ngô Sĩ Liên, Phạm Công Trứ,… (1697?). Đại Việt sử kí toàn thư, Bản kỉ, q2, tờ 2a.
( ) Trần Kinh Hòa (biên hiệu) (1984). Đại Việt sử kí toàn thư, Đông Kinh đại học Đông Dương văn hóa nghiên cứu sở xuất bản, Tokyo.
( ) Bùi Huy Bích (1825). Hoàng Việt văn tuyển, q6, tờ 47a.
( ) Quốc sử quán triều Nguyễn (1856 - 1888). Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, q2, tờ 9a-b.
( ) La Trúc Phong (chủ biên) (1989). Hán ngữ đại từ điển tập 3, Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, Thượng Hải, tr.1310.
( ) Toàn thư, Bản kỉ, q1, tờ 32b.
( ) Thư Tân Thành, Thẩm Di,… (1948). Từ hải hợp đính bản, Trung Hoa thư cục, Thượng Hải, trang 1344.
( ) Từ hải, trang 1335.
( ) Toàn thư, Bản kỉ, q1, tờ 2a-b.
( ) Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1993). Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, trang 166.
( ) Toàn thư, Bản kỉ, q1, tờ 32a.
( ) Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm (1800). Đại Việt sử kí tiền biên, Bản kỉ, q1, tờ 41a.
( ) Tiền biên, Bản kỉ, q2, tờ 3a.
( ) Tạ Chí Đại Trường (2008). Những bài dã sử Việt, Nxb Tri thức, Hà Nội, trang 177.
( ) Cương mục, Tiền biên, q5, tờ 10b.
( ) Từ Hải, trang 1066.
( ) Tiền biên, Ngoại kỉ, q6, tờ 20a.
( ) Toàn thư, Ngoại kỉ, q5, tờ 7b.
( ) Từ Hải, trang 1576.
( ) Tiền biên, Bản kỉ, q2, tờ 3a.
( ) Tiền biên, Bản kỉ, q1, tờ 2b.
( ) Toàn thư, Bản kỉ, q1, tờ 3a-4a.
( ) Từ Hải, trang 1226.
( ) Từ Hải, trang 1304.
( ) Từ Hải, trang 79.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét