Thứ Hai, 11 tháng 10, 2010

Thường thức: hiện tượng biến đổi giới trong văn học Việt Nam trung đại

Biến đổi giới là một hiện tượng hi hữu, lạ kì, nếu không muốn nói là “quái dị” trong đời sống nhân loại, nhất là ở các thời đại trước khi mà tri thức về khoa học tự nhiên chưa phát triển đủ để lí giải hay thậm chí “làm chủ”. Điều này tạo nên một tập hợp những phản ứng của con nguời đương thời: sợ hãi, lo lắng, mặc cảm nhưng cũng đầy tò mò, hứng thú dè dặt,v.v… Những ấn tượng như thế để lại dấu ấn nhất định trong triết học, sử học, văn học các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Trong văn học Trung đại Việt Nam, biến đổi giới đã xuất hiện và để lại dấu ấn nhất định. Vậy, chúng được nhận thức và thể hiện như thế nào trong văn học thời kì này? Trả lời câu hỏi trên sẽ giúp chúng ta có thêm hiểu biết về quan niệm về giới trong văn học dân tộc.
Theo chúng tôi, hiện tượng biến đổi giới được nhận thức và biểu hiện trong văn học Trung đại Việt Nam ở các phương diện sau:
1. Biến đổi giới như một phương thức tư duy và phản ánh của sử học – “bút pháp Xuân Thu”.
Hiện tượng biến đổi giới được ghi chép sớm nhất trong sử sách Trung Hoa. Theo sách Xuân Thu Tả truyện, năm thứ 13 đời Ngụy Tương Vương thời Chiến Quốc (tức năm 306 trước Công nguyên), nước Ngụy có một trường hợp con gái biến thành con trai. Tuy nhiên, ngay từ lúc này, hiện tượng biến đổi giới đã không được nhìn nhận đúng với bản chất của nó. Hiện tượng này được nhìn nhận thuần túy như một điềm “tai dị” chứ không phải một hiện tượng y học, tâm sinh lí học. Chính vì thế, một sự kiện tưởng như không liên quan gì đến lịch sử các triều đại lại được ghi chép trong các bộ chính sử, trong khi rất nhiều sự kiện, hiện tượng khác có liên quan hơn lại bị bỏ qua hoặc xem nhẹ. Điều này xuất phát từ quan niệm của người trung đại về Tam tài (Thiên, Địa, Nhân) có liên hệ hỗ ứng với nhau: thiên nhân cảm ứng, môn chiêm tinh, thuyết âm dương ngũ hành, v.v... Theo đó, nam là biểu hiện của khí dương, nữ là biểu hiện của khí âm. Vũ trụ và xã hội phát triển hài hòa khi âm là âm, dương là dương trong sự giao hòa, tương tác với nhau một cách ổn định theo một trật tự hợp lí. Một khi, trật từ hài hóa đó bị phá vỡ (phần lớn do nhân luân, đạo đức suy thoái), sẽ dẫn đến những hiện tượng quái dị. Hiện tượng nam hóa nữ, nữ hóa nam chính là biểu hiện của sự đảo lộn “lẽ thường” (âm dương, tôn ti, cao thấp, trên dưới,...) và dẫn đến những bất ổn của tự nhiên và xã hội. Hiện tượng đó cũng là một dấu hiệu thể hiện thái độ giận dữ, cảnh cáo của đấng tối cao - Trời (Đất) - đối với nhân gian, đối với nền chính trị đương thời. Đứng trước hiện tượng như thế, người đứng đầu đất nước – vương, đế, Thiên tử, vua – phải thành kính chay tịnh, làm lễ tế trời đất,... Có những sách còn giảng giải kĩ hơn về điềm báo, hung triệu của hiện tượng này, chẳng hạn: “Sách Dịch chiêm của Kinh Phòng có nói: ‘Nam hóa nữ, do hình phạt thiến người quá lạm. Nữ hóa nam, vì phụ nữ tham chính’. Trong sách Xuân thu vĩ, Tiềm Đàm Ba chép: ‘Nam hóa nữ, là điềm người hiền lìa ngôi. Nữ hóa nam, là điềm kẻ hèn mọn lên làm vua” [theo Sơn cư tạp thuật, truyện Nữ hóa nam]. Như vậy, do thiếu hiểu biết về khoa học tự nhiên, do bị ám ảnh bởi những lí thuyết siêu hình, một hiện tượng tự nhiên (y học, sinh lí học) đã bị biến thành một hiện tượng chính trị, đạo đức; một hiện tượng cá nhân đã bị biến thành một hiện tượng xã hội, thậm chí hiện tượng vũ trụ. Với các nhà viết sử, hay các nhà văn có thiên hướng sử học, họ đã tận dụng hiện tượng này vào cách viết của mình. Trong lối viết sử truyền thống của khu vực Hán hóa, người ta thường đề cao cái gọi là “bút pháp Xuân Thu”, tức là cách khen chê (bao biếm) một cách kín đáo. Ở đây, biến đổi giới là một chi tiết dùng để “biếm”. Nghĩa là, hiện tượng biến đổi giới được ghi chép như một chi tiết để “phúng thích”, “châm biếm” sự khiếm khuyết, trái nhân luân của nền chính trị đương thời. Bản thân sách (Xuân Thu) Tả Truyện cũng là cuốn sách đầu tiên ghi chép hiện tượng biến đổi giới như một cách để “bao biếm” chính sự và “ngụ ý khuyên răn”. Hiện tượng này tạo nên một truyền thống lâu dài trong văn học cổ - trung đại ở các nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán, trong đó có Việt Nam.
Ở Việt Nam, hiện tượng biến đổi giới tính sớm nhất được ghi chép là vào năm 1351 đời Trần Dụ Tông. Sách Đại Việt sử kí toàn thư chép:
“Tân Mão, [Thiệu Phong] năm thứ 11[1351], (Nguyên Chí Chính năm thứ 11). Mùa xuân, tháng giêng, người Thái Nguyên và Lạng Sơn tụ họp làm giặc cướp, đánh lẫn nhau. Đánh dẹp được bọn chúng. Mùa hạ, tháng 5, ngày mồng một, nhật thực. Mùa thu, tháng 7, nước to. Lấy Trương Hán Siêu làm Tham tri chính sự. Người con gái ở Thiên Cương, Nghệ An biến thành con trai (Nghệ An, Thiên Cương nữ biến thành nam). Trâu Canh có tội đáng chết, được tha” [Đại Việt sử kí toàn thư, Bản kỉ, Quyển VII].
Sự kiện này cũng được Đại Việt sử kí tiền biên, Việt sử tiêu án, Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép lại (có lẽ là đều theo Toàn thư).
Không phải ngẫu nhiên, hiện tượng biến đổi giới ở đây được xếp chung với những hiện tượng bất thường của thiên nhiên và xã hội: giặc cướp, nhật thực, nước to, Trâu Canh mắc tội, Trần Dụ Tông ăn nằm với chị gái,... Chúng tạo thành một hệ thống những điềm triệu thể hiện sự phẫn nộ của trời đất trước nền chính trị thối nát, đạo đức vô luân và báo hiệu sự suy tàn của vương triều nhà Trần, bắt đầu từ Dụ Tông. Sau đó, chính sử không ghi chép một hiện tượng nào tương tự nhưng theo Đan Sơn trong Sơn cư tạp thuật: “Cứ theo sử sách ghi chép thì chuyện trai hóa gái, gái hóa trai đời nào cũng có”. Hẳn, chính sử của ta đã bỏ sót nhiều hiện tượng tương tự, nhưng các tác phẩm dã sử, văn học đã làm thay điều đó và tạo nên dấu ấn của hiện tượng biến đổi giới trong văn học.
Cái nhìn về sự biến đổi giới như một điềm tai dị từ lịch sử, văn hóa đi vào trong văn học và có tác động lớn đến những sáng tác văn học về hiện tượng này. Tác phẩm văn học sớm nhất đề cập đến hiện tượng này có lẽ là Sơn cư tạp thuật của Đan Sơn (cuối XVIII). Trong truyện Nữ hóa nam, Đan Sơn kể: “Trong niên hiệu Bảo Thái (1720 – 1729) ở nước ta, một người đàn bà là Thị Viết ở xã Mộc Nhuận, huyện Đông Sơn (nay là xã Đông Yên, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa – NTT), là vợ ưu binh, đẻ được hai đứa con, rồi ốm liệt hơn một năm. Bỗng một hôm, người đàn bà này sưng đau ở bộ phận sinh dục, rồi hóa thành hình nguời đàn ông. Vì cha mẹ chị ta sinh toàn con gái, nên chị ta xin quan cho trở về phía cha mẹ để nối dõi tông đường. Quan trên sau khi khám nghiệm xác thực đã chuẩn y lời thỉnh cầu của chị ta. Được ít lâu, chị ta được cử làm Tổng trưởng”.
Vậy, mục đích ghi chép câu chuyện kì lạ của Đan Sơn là gì? Không giấu diếm ý đồ sáng tác của mình, Đan Sơn khẳng định ngay trong phần sau của truyện qua lời bình luận trực tiếp: “Cuối niên hiệu Vĩnh Hựu (1735 – 1740), giặc cướp nổi lên khắp chốn, người nào cũng tự xưng làm vua làm chúa. Nguyễn Danh Phương, người đất Yên Lạc chiếm cứ vùng chân núi Tam Đảo, tự xưng là “Thuận Thiên khải vận Đại nhân”. Lại lập ra các dinh thự, đặt quan chức, quân hiệu, chế ra các xe kiệu, có đầy đủ màn trướng, định ra cờ quạt, ngày tháng. Đó chính là điềm ứng nghiệm về kẻ hèn mọn lên làm vua. Lại như thái phi của Nghị Tổ (Trịnh Doanh) là Nguyễn Thị Vinh; tuyên phi của Thánh Tổ (Trịnh Sâm) là Đặng Thị Huệ, đều là những người ở chốn cung sâu mà lộng quyền gây loạn, làm cho triều chính đi tới chỗ đổ nát. Đó cũng chính là sự ứng nghiệm về điều phụ nữ tham chính, há chẳng phải do khí nghịch rước yêu tinh tới mà hóa thành khác thường đấy ư?”. Rõ ràng, cái nhìn của sử nói riêng và của văn hóa trung đại nói chung đã thể hiện rõ trong tác phẩm của Đan Sơn.
Cũng với mục đích ấy, nhưng tư tưởng của Vũ Trinh dường như được thể hiện kín đáo hơn. Trong truyện Nữ biến thành nam (Lan Trì Kiến văn lục), Vũ Trinh kể lại câu chuyện: Cô gái họ Trương, ở Thanh Hóa, lấy chồng, sinh được một con trai: “Bỗng nhiên cô gái bị bệnh nặng, người nóng hừng hực, mê man bất tỉnh. Đến ba bốn ngày thì nóng giảm dần, lại thấy phần dưới cơ thể đau đớn, không chịu nổi, mê man, ngủ thiếp đi, sau một đêm thì thành con trai”. Sau khi biến thành đàn ông, người này lại lấy vợ và có một con gái. Khi già, phân chia tài sản, đứa con trai cũ và đứa con gái mới tranh chấp tài sản với nhau, đưa lên quan. Quan thẩm án thấy đúng có chuyện kì lạ bèn xử chia đôi tài sản. Nếu câu chuyện dừng lại ở đây thì có thể hiểu, Vũ Trinh muốn ghi chép một hiện tượng kì lạ “tai nghe mắt thấy” (kiến văn lục), có phần giống với câu chuyện của tác giả Sơn cư tạp thuật. Đặt vào hoàn cảnh ra đời của Lan Trì kiến văn lục (viết khi Vũ Trinh về ở ẩn tránh quân Tây Sơn, khoảng từ 1790 - 1794), lại có thể suy ra ngầm ý sâu xa của Vũ Trinh khi chép lại câu chuyện trên là để phê phán chính sự, thế cục đương thời đảo lộn, âm dương lẫn lộn, cương thường đảo điên, “mũ giép lẫn lộn” (lời Nguyễn Hữu Chỉnh trong Hoàng Lê nhất thống chí). Nó cũng giống như một số truyện khác cũng trong tập sách này, hay một số truyện trong các tác phẩm của Nguyễn Án, Phạm Đình Hổ (như Vũ trung tùy bút, Tang thương ngẫu lục,...) xuất hiện cùng thời. Lối tư duy mang nặng nhãn quan sử học đó lí giải một điều, các tác phẩm kể về hiện tượng biến đổi giới trong văn học Việt Nam trung đại đều là những tác phẩm kí, thiên về ghi chép những điều “sở kiến”, “sở văn” có thiên hướng sử học với không gian, thời gian cụ thể, rõ ràng. Nó cũng nhắm đến một mục đích là thể hiện thái độ của các tác giả trước thời cuộc, trước nhân tình thế thái. Chính vì vậy, lẽ ra đó là một hiện tượng rất “quái” thì các tác giả Trung đại lại cho đấy làm “thường” vì họ có sẵn cách lí giải khá thông suốt như thế. Chẳng hạn, Trần Danh Lưu bình luận Lan Trì kiến văn lục nói về hiện tượng này viết: “Nữ biến thành nam, không phải là lạ”. Đó là cái nhìn của một nhà Nho, một nhà Đạo học.
Trên đây là hiện tượng nữ hóa nam. Còn hiện tượng nam hóa nữ thì sao?
Rồi hiện tượng nữ giả nam thì sao?
Cũng có thể nhắc đến hiện tượng biến đổi giới một cách “nhân tạo” mà các nhà Nho cũng thường hay đề cập như một cách để phúng thích chính sự và thể hiện quan điểm chính trị, đạo đức của mình, đó là hiện tượng hoạn quan. Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy, trong tác phẩm văn học, sử học nào, bóng dáng hoạn quan xuất hiện nhiều, can dự nhiều vào các tình tiết, sự kiện thì “y như rằng”, tác phẩm ấy đang báo hiệu về một thời đại sắp loạn, vương triều sắp sụp đổ. Tam quốc chí diễn nghĩa của Trung Hoa, Hoàng Lê nhất thống chí là những ví dụ tiêu biểu. Dưới con mắt nhà Nho, nhà sử học, sự can dự của các hoạn quan bao giờ cũng chẳng tốt lành. Trên thực tế, chúng ta thấy có khá nhiều hoạn quan là những anh tài kiệt xuất, có đóng góp quan trọng cho vương triều, cho dân tộc. Chỉ nói trong văn học Việt Nam, ta thấy nhiều hiện tượng: Lí Thường Kiệt (tướng tài triều Lí), Phạm Ứng Mộng (tể tướng tài năng triều Trần), Lương Đăng (soạn lễ nhạc triều Lê), Hoàng Ngũ Phúc (tướng tài triều Lê Trịnh), Lê Văn Duyệt (tướng tài triều Nguyễn),v.v… Nhưng ít khi họ được biểu dương, hoặc nếu có thì thường bị lờ đi cái gốc “hoạn quan”, hay thậm chí bị phê phán nặng (như trường hợp Lương Đăng chẳng hạn). Điều này thể hiện cái nhìn kì thị của nhà Nho của nhà Nho đối với một hiện tượng mà họ cho là trái tự nhiên, trái lẽ thường. Hiện tượng này có phần tương đồng với hiện tượng nữ hóa nam đã đề cập ở trên.
2. Biến đổi giới như một thể nghiệm tâm sinh lí học và tâm lí sáng tạo nghệ thuật.
Cùng với sự phát triển của lịch sử tư tưởng – văn hóa, đến một lúc nào đó, bản chất tâm sinh lí học (đặc biệt là vấn đề tính dục) của biến đổi giới nhất định sẽ được nhìn nhận ở một mức độ nào đó. Tuy nhiên, có thể nói, vấn đề này không được các tác giả văn học Việt Nam trung đại đặt ra nhiều. Cơ hội khá hiếm có để nói nhiều về vấn đề tính dục, thể nghiệm những điều cấm kị bị bỏ qua. Điều này có lẽ một phần do tâm lí e ngại khi nói đến những vấn đề nhạy cảm, nhưng phần quan trọng hơn là do xu hướng chính trị và đạo đức hóa hiện tượng nhẽ ra chỉ thuần túy mang tính chất sinh lí, giới tính đã lấn át cái nhìn thuần túy dưới góc độ dục tình. Đời sống tâm sinh lí của những cá nhân gặp phải hiện tượng biến đổi giới tính đó không được quan tâm nhiều, hoặc có khi tuyệt nhiên không được đề cập đến. Thảng hoặc, có trường hợp, đã manh nha đề cập đến khía cạnh tính dục nhưng lại bỏ lửng, chưa có những bước đột phá. Như trường hợp Đan Sơn trong Sơn cư tạp thuật đã chớm đặt ra vấn đề:
“Cư sĩ Mộng Cúc có lần từng cùng ngồi với ông Tổng trưởng (vốn là nữ hóa thành nam - NTT), nhân đó có hỏi đùa ông ta rằng: ‘Trong chuyện chăn gối, giữa trai và gái, ở giới nào [ông] cảm thấy có thú hơn?’ Người này chỉ cười mà không trả lời” [Nữ hóa nam].
Cách viết của Đan Sơn khiến ta hình dung đến cảnh một người muốn lội xuống ao sâu để bắt cá nhưng vừa đặt bàn chân xuống mặt nước đã bị cái lạnh của làn nước làm cho chùn bước, từ bỏ ý định khám phá. Mặc dù mới bỏ lửng ở đây, nhưng đây vẫn là một dấu hiệu cho thấy, người ta đã không còn làm ngơ trước một cơ hội có thể đặt ra câu hỏi về bản chất của dục tình. Bản chất đó là lạc thú. Sự băn khoăn so sánh sự hơn kém về lạc thú giữa giới nam và giới nữ đã cho thấy điều đó. Ta cũng nên chú ý là trong Sơn cư tạp thuật, Đan Sơn tỏ ra là một tác giả có cái nhìn thực tiễn về đời sống và ông hơn một lần nói về tính dục, trong đó, ông khẳng định nhu cầu thực của con người về vấn đề này. Chẳng hạn, trong truyện Bắc sứ ông viết về vị sứ giả phương Bắc “là tay thanh niên nhạy bén, tự nén mình đã lâu, lúc này lòng dục xao động, tình cảm xốn xang, không thể kìm hãm được nữa, liền sang buồng cô gái”. Chuyện tình của ông sứ Bắc và cô gái nước nam chỉ chấm dứt khi ông ta phải về nước để lại bao lưu luyến cho cả hai bên. Truyện Sư cụ chùa Yên Tử viết lại câu chuyện về sư tổ Huyền Quang trong Tam tổ thực lục với một giả thuyết hoàn toàn ngược lại so với tác phẩm của các Thiền sư. Trong đó, sư Huyền Quang sống hoàn toàn với bản năng của một con người trần tục: “lửa dục bốc cháy ngùn ngụt, nhà sư bèn đem hết số vàng vua ban ra cho Thị Bích và ngủ với nàng”. Khi bị chất vấn, Huyền Quang đã thẳng thắn thừa nhận:
Thế gian tam sự nan trừ liễu,
Hảo tửu, phì dương, nộn nữ nhi.
(Trong thế gian có ba thứ khó chừa,
Đó là rượu nồng, dê béo, gái vừa đang tơ).
Nhìn rộng ra thì thế kỉ XVIII – XIX cũng là giai đoạn khẳng định riết róng những nhu cầu nhân bản của con người, trong đó có nhu cầu về lạc thú dục tình với những tên tuổi như Nguyễn Hữu Hào (Truyện Song Tinh), Đặng Trần Côn (Chinh phụ ngâm khúc, Bích Câu kì ngộ), Nguyễn Gia Thiều (Cung oán ngâm khúc), Hồ Xuân Hương (thơ Nôm truyền tụng), Nguyễn Công Trứ (thơ hát nói “hành lạc”),... Hiện tượng biến đổi giới tính được nhìn dưới góc độ lạc thú dục tình cũng nằm trong phong các, xu thế đó. Tiếc rằng, nó chưa được đào sâu, khai thác triệt để hơn.
Cũng có một hiện tượng phái sinh từ hiện tượng biến đổi giới là việc có một số tác giả nam “giả thác” thành các nhân vật nữ để bày tỏ nhu cầu về lạc thú của mình, như Đặng Trần Côn (Chinh phụ ngâm khúc), Nguyễn Gia Thiều (Cung oán ngâm khúc), khuyết danh (Mẹ ơi con muốn lấy chồng),v.v... và không loại trừ cả trường hợp một số bài thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương (Cái quạt, Quả mít, Hang Cắc Cớ, Đèo Ba Dội,...). Có thể nói đây là cách tự biến đổi giới giả định để phục vụ ý đồ của tác giả văn học. Đây là một hiện tượng thú vị, nhưng cũng rất phức tạp, đòi hỏi phải được nghiên cứu riêng một cách công phu, nghiêm túc ngõ hầu mới thấy hết bản chất và ý nghĩa của nó. Ở đây, chúng tôi cho rằng, nó cũng là một hình thức “chuyển đổi giới tính” giả tưởng, cố ý, nhằm các mục đích: né tránh những điều cấm kị (với các tác giả là những nhà Nho nam đạo mạo, nặng gánh “tu mi nam tử”, “hiền nhân quân tử”), thể nghiệm nhu cầu dục tình từ phía giới đối ngược và khám phá những góc cạnh tâm sinh lí của các giới đối với vấn đề hấp dẫn muôn thưở nọ. Nó cũng cho thấy ý thức, gánh nặng “nam quyền” đã đè nặng lên tâm lí của các tác giả nam khiến họ không thể trực tiếp bộc lộ vị thế, nhu cầu giới của bản thân. Chẳng hạn, đọc một số bài thơ được cho là “dâm tục” của Hồ Xuân Hương, người ta không chắc bài thơ biểu hiện khao khát dục tình của nữ giới hay chính là của các bậc tu mi nam tử? Cho nên, không phải hoàn toàn vô lí khi có ý kiến cho rằng nhiều bài thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương có giọng điệu nam tính, có sắc thái “nam quyền”.
Cũng trong thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương, lần đầu tiên chúng ta thấy văn học đã đề cập đến hiện tượng lưỡng giới (hay giới tính không rõ ràng), đó là bài Vô âm nữ:
Mười hai bà mụ ghét chi nhau,
Ðem cái xuân tình vứt bỏ đâu.
Rúc rích thây cha con chuột nhắt,
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu.
Ðố ai biết đó vông hay trốc,
Còn kẻ nào hay cuống với đầu.
Thôi thế thì thôi, thôi cũng được,
Nghìn năm càng khỏi tiếng nương dâu
Bài thơ nói về sự dở dang về mặt giới tính của một con người. Đằng sau cái vẻ bất cần dục tình vì những thiếu sót của tạo hóa, người ta thấy những băn khoăn đau xót đầy cảm thông của tác giả với một số phận bất hạnh. Những biểu hiện về giới (cái xuân tình, vo ve, rúc rích,...) không thật rõ ràng là đối tượng quan tâm của bài thơ. Qua đó, người ta phải đặt ra một câu hỏi: con người đó sẽ tìm thấy lạc thú ở đâu? Rõ ràng, câu trả lời là một sự thật phũ phàng và bi kịch.
3. Biến đổi giới như một phương thức nghệ thuật ngôn từ
Không chỉ biết nhận thức và ứng xử với hiện tượng biến đổi giới như một hiện tượng xã hội - lịch sử (mang tính thần bí) và tâm sinh lí học, các tác giả Việt Nam trung đại còn sử dụng nó như một phương thức nghệ thuật, nghĩa là mang tính chất hư cấu nghệ thuật và nhằm phục vụ một ý đồ nghệ thuật nào đó. Có hai hướng khai thác hiện tượng biến đổi giới: sử dụng như một phương tiện có chức năng ngụ ý, trào phúng; sử dụng như một phương tiện có chức năng khẳng định, nhấn mạnh.
Chức năng ngụ ý trào phúng được Vũ Trinh sử dụng khá hiệu quả trong truyện Nữ biến thành nam. Sau khi miêu tả hiện tượng “nữ biến thành nam” lạ lùng, kì dị, Vũ Trinh lái câu chuyện sang một hướng khác, đó là thể hiện tâm sự thầm kín của bản thân. Điều này được thể hiện ở đoạn “vĩ thanh” đầy ý nghĩa cuối truyện:
“Có người hỏi Lan Trì ngư giả rằng: ‘Gái mà biến thành trai, chả lạ lắm sao! Hẳn là người con gái ấy phải có chút khí cốt của bậc tu mi nam tử’. Lan Trì cả cười đáp rằng: ‘Nếu đúng như lời ông, thì bọn mày râu khắp thiên hạ ngày nay được là mấy mà chẳng biến hết cả thành đàn bà?’ Khách cũng cả cười mà nói: ‘Thế thì chỉ có một mình ông là nam tử chắc!’ Lan Trì gãi đầu nói: ‘Tôi cũng là đàn bà”.
Té ra, mục đích ghi chép hiện tượng lạ nêu trên không chỉ là bao biếm chính sự mà còn là một hình thức trào phúng sâu sắc và tự trào khá hóm hỉnh. Chuyện gái biến thành trai chỉ là cái cớ để Vũ Trinh châm biếm khí phách của các bậc tu mi nam tử (không loại trừ cả bản thân ông). “Gái” hay “trai”, “mày râu” hay “đàn bà” ở đây là để chỉ khí phách, bản lĩnh chứ không phải để chỉ sinh lí, giới tính. Như vậy, là ở đây, Vũ Trinh đã tiếp cận vấn đề chuyển đổi giới tính ở góc độ nhân cách, đạo đức. Trong đó, ông cũng thể hiện rõ tư tưởng nam quyền của ông và cả của thời đại. Điều này gợi nhắc đến câu chuyện trong Tam quốc chí diễn nghĩa, để khiêu khích Tư Mã Ý ra đánh trận, Khổng Minh đã gửi cho họ Tư Mã bộ xiêm áo của phụ nữ, ngầm ý chê Tư Mã Ý là đàn bà. Như thế, dĩ nhiên, Vũ Trinh tự nhận mình và đàn bà và cho “bọn mày râu khắp thiên hạ ngày nay được là mấy mà chẳng biến hết thành đàn bà” là mang mặc cảm và tâm lí đó. Đây là tâm lí phổ biến ở thời Trung đại. Trước đó, sử thần Lê Văn Hưu khi bình luận về tấm gương Trưng Trắc, Trưng Nhị cũng có viết: “Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, trong khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay, làm tôi tớ cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao? Ôi! Có thể gọi là tự vứt bỏ mình vậy” [Đại Việt sử kí toàn thư, Ngoại kỉ, quyển III]. Một nhân vật bản lĩnh, cá tính như Hồ Xuân Hương trong khi “chiến đấu” để khẳng định giới mình, vẫn bộc lộ tâm lí tự ti, ám ảnh của tư tưởng “nam quyền” khi viết:
Ví đây đổi phận làm trai đuợc,
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.
[Đề đền Sầm Nghi Đống]
Tâm lí tự ti đã đi vào trong tiềm thức của con người Trung đại. Dấu ấn nam quyền đó sẽ lí giải vì sao, trong văn học trung đại Việt Nam hiện tượng nữ hóa thành nam xuất hiện nhiều, hiện tượng nam hóa thành nữ hầu như không có. Chỉ nguyên việc Hoàng tử, Kiến vương Tân, con vua Lê Thánh Tông có sở thích mặc đồ phụ nữ [Toàn thư, Bản kỉ, quyển XIV] đã bị các sử gia Nho giáo phê phán kịch liệt, bản thân ông không được nối ngôi Thái tử nhà Lê. Các hoàng hậu, cung phi, mệnh phụ,... nắm quyền lực hoặc có ảnh hưởng đến chính sự hầu hết không giành được thiện cảm của các sử gia. Điều đó cho thấy tính bất bình đẳng ngay trong việc nhìn nhận hiện tượng biến đổi giới tính.
Phương thức khẳng định, nhấn mạnh được Đan Sơn sử dụng qua việc chép lại câu chuyện của một tác giả Trung Hoa. Đó là truyện của họ Khuất (?) kể về một cô gái họ Trần hiếu nghĩa, quê ở tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc). Đến tuổi trưởng thành, cô cho cha mình không có con trai, nhà lại nghèo nên quyết định không đi lấy chồng để ở nhà nuôi cha. Nhưng người cha bắt cô phải đi lấy chồng. Sau khi đi lấy chồng, cô vẫn hàng ngày về phụng dưỡng cha bất chấp đường xa, nguy hiểm,... Dọc đường về cô thường đi qua một ngôi miếu thần và vào đó cầu khấn. Cô thường than thở vì mình là gái, không được làm con trai để cha già nương tựa. “Một hôm, cô đang bò lê phủ phục ở trước bệ thờ, bỗng thấy quả rừng rơi xuống trước mặt. Cô nhặt lấy mà ăn. Sau đó, cô bị ốm, mê man liền mấy ngày. Cô mộng thấy có người cầm dao chặt phăng nửa thân dưới của mình rồi nối cho khúc thân khác. Cô giật mình tỉnh dậy, thì thấy mình đã thành con trai”. Sau đó, người này lại lấy vợ như một nam nhân bình thường, cha người này được quan trên chu cấp nuôi dưỡng vì cho hiện tượng lạ đó là do chữ hiếu của cô họ Trần đã cảm thông đến trời.
Sơn cư tạp thuật dẫn lời họ Khuất bình luận: “Kể cũng ghê thật! Trời vốn không có cái gì là đối xử không đầy đủ với con người, song con người từng đối xử không đầy đủ với con người. Ôi! Nếu đầy đủ với trời, thì dẫu gái hóa trai cũng có thể được. Cái việc họ Trần hiếu nghĩa chính là thế đó. Than ôi! Gái hóa trai vốn chẳng phải điều lành, song ở họ Trần lại là lành. Vợ hóa chồng vốn chẳng phải điều tốt, song ở họ Trần cũng lại là tốt. Nếu đã là tốt lành thì có gì quái lạ nữa đâu”. Câu chuyện này giống với truyện biến đổi giới chép trong các Phật thoại. Trong kinh điển Phật giáo có 2 Phật thoại về hiện tượng biến đổi giới. Một là, huyền thoại Long nữ hóa thành nam và đắc đạo; hai là huyền thoại về trưởng giả Soreyya từ nam hóa thành nữ vì bị trừng phạt, sau đó đắc đạo. Ở cả hai Phật thoại này, hiện tượng chuyển đổi giới hoặc là để chứng minh cho tính phổ quát của đạo Phật (nữ cũng có thể đắc đạo thành Phật) hoặc là một thử thách phải vượt qua trước khi đắc đạo. Trong Phật giáo (kinh Pháp Hoa), có tích Tiểu Long nữ hóa thành nam( ). Điều đó chứng minh cho thuyết lí của Phật: mọi chúng sinh đều có thể thành Phật Trong kinh Pháp cú lại có câu chuyện ông Soreyya từ nam biến thành nữ và từ nữ biến thành nam, mỗi lần như vậy đều có gia đình và có con, sau đó xuất gia chứng đắc đạo quả. Việc chuyển đổi giới tính ở đây có ý nghĩa như một bài học, một sự trừng phạt cho kẻ mê muội, đồng thời là sự thể nghiệm cảm xúc của người vừa làm cha vừa làm mẹ. Câu chuyện cũng là bài học về việc “cầu được ước thấy, phóng tâm lộng ngữ ắt có ngày”( ). Như vậy, có thể thấy, trong văn học Phật giáo từ xưa đã có truyền thống mượn chuyện biến đổi giới để ngụ ngôn hoặc khuyến giới.
Sự biến đổi giới của cô gái họ Trần cũng có thể xem là một thử thách để chứng minh, khẳng định tấm lòng hiếu thảo của cô. Ở đây, sự biến đổi giới không phải là điều quan trọng, mà cái chính là ở mức độ khó khăn của nó khiến cho thành tựu đạt được càng lớn. Hiện tượng biến đổi giới ở đây cũng không còn cần thiết phải là một hiện tượng có thực nữa, mà trái lại, hầu hết chỉ là huyền thoại, là sự tưởng tượng, hư cấu mang màu sắc folklore.
Như vậy, đối với các tác giả trung đại, một hiện tượng quái lạ, chẳng lành, nhưng nếu tìm đuợc cho nó một lí do hợp lí, cao cả về mặt đạo đức thì lại hoàn toàn có thể chấp nhận được, lại trở thành bình thường: “nếu đã tốt lành thì có gì quái lạ nữa đâu”. Qua ví dụ này, người ta thấy được tinh thần trọng đạo đức (nhất là các phẩm chất lí tưởng của Nho giáo như: trung, hiếu, tiết, nghĩa) và duy ý chí của các tác giả văn học Trung đại khi nhìn nhận về vấn đề biến đổi giới.
Tóm lại, qua việc khảo sát hiện tượng biến đổi giới trong văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, văn học, chúng ta có thể rút ra được một số nhận thức bổ ích về quan niệm, tâm lí giới (gender); quan niệm, tâm lí về dục tính (sexuality), nam tính (masculinity), bản sắc (identity)... trong văn học dân tộc nói riêng và văn hóa dân tộc nói chung. Nhìn chung, chúng đều phản ánh tác động của Nho giáo (đặc biệt là Tống Nho) đến nhãn quan của các tác giả văn học Trung đại Việt Nam. Ngoài ra, nó cũng phản ánh phần nào đó, sự xuất hiện tự nhiên của ý thức nhân bản trên cơ sở sự phát triển của văn học thế tục, văn học nghệ thuật. Dĩ nhiên, muốn nhận thức sâu hơn nữa về những vấn đề trên, chúng ta cần có thêm nhiều tư liệu và các phương pháp tiếp cận liên ngành trong tương lai/.
N.T.T
Tài liệu tham khảo
1. Ngô Sĩ Liên và các sử thần nhà Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H, 1993.
2. Trần Nghĩa (chủ biên), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, tập 1 – 2, Nxb Thế giới, H, 1993.
3. Piyadassi Mahathera, Phật giáo nhìn toàn diện, (The Spectrum of Buddhism), dịch giả Phạm Kim Khánh; Trung tâm Narada, Seattle, Hoa Kỳ, xuất bản, 1995.
4. Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tổ phiên dịch Viện sử học dịch, Nxb Giáo dục, H, 1998.
5. Ngô Thì Sĩ, Đại Việt sử kí tiền biên, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb Khoa học xã hội, H, 1997.
6. Ngô Thì Sĩ, Việt sử tiêu án, Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu, Nxb Văn Sử, H, 1991.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét