1. Đặt vấn đề
Cao Bá Quát (1808? – 1855?) là một tên tuổi lớn trong lịch sử văn học dân tộc. Làm nên tên tuổi của ông không chỉ là sáng tác văn học đồ sộ, có phong cách riêng biệt mà còn là một quan niệm văn học độc đáo, sâu sắc. Nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung bàn về quan niệm văn học của Cao Bá Quát, trong đó không ai không chú ý đến quan niệm về thơ hay quan niệm thi học của ông [9], [11], [15],v.v... Các công trình của họ đã chỉ ra bản sắc và giá trị của quan niệm đó trên nhiều khía cạnh, tầng bậc khác nhau. Tuy nhiên, theo chúng tôi, vấn đề nguồn gốc, bản chất của quan niệm này vẫn chưa được “dò cho đến ngọn nguồn lạch sông” (Nguyễn Du). Bởi vậy, bài viết của chúng tôi sẽ bước đầu giải quyết vấn đề đó.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Từ bài Thương Sơn thi tập hậu tự....
Khi nghiên cứu quan niệm thi học của Cao Bá Quát, không ai có thể bỏ qua được một tư liệu cực kì quan trọng, đó là bài Thương Sơn thi tập hậu tự (1849). Trong bài hậu tự, Cao Bá Quát đã trình bày một cách tương đối cặn kẽ quan niệm thi học của mình. Chúng tôi xin được bắt đầu từ bài hậu tự này:
“Họ Cao tôi sắp đi Quốc Oai, vì ốm nên chưa lên đường. Người của Quốc công [hiệu] Thương Sơn đến truyền lại lời ông rằng: “Ông đi thì tập thơ của tôi gần đây có lẽ chẳng được lời nào của ông chăng?” Ôi! Thật là khó nói về thơ! Quốc công cũng biết rồi đấy. Cái học khoa cử gần đây đã nhập vào người ta mấy trăm năm rồi! Âm hưởng của Phong Nhã hầu như đã dứt hẳn. Triều ta chính trị và giáo hóa sáng sủa, hưng thịnh, các tác gia bèn nối gót nhau xuất hiện. Nhưng cái rơi rớt của thói ủy mị, yếu đuối, ít người tự rũ bỏ được: người yếu kém thì khổ vì sự theo đòi dễ dãi; người có hào khí thì mắc vào bệnh ăn sống nuốt tươi. Còn những người sức học dồi dào lại hí hửng tự đắc, chỉ muốn vơ váo trăm nhà, thâu tóm các thể, thành thử mô phỏng thái quá, mà phong thái, cốt cách chưa cao siêu, tô vẽ có khéo, nhưng nghĩa lí, tinh thần còn kém. Đúng như Khương Tây Minh đã nói: “rập theo âm kêu, câu rậm để làm khí tượng, rồi thác là Thịnh Đường, đó chính là việc làm của những kẻ chìm ngập trong thi thoại của các nhà, ăn cái xưa mà không hóa được vậy”. Ôi! Bàn về thơ tuy vẫn giữ cái phép tắc của thể cách nhưng làm thơ thì phải bám gốc ở tính tình. Nếu chỉ việc gì cũng bắt chước, lời nào cũng mô phỏng, như: chia tay vặt ở đầu thôn mà ca câu “chén rượu Dương Quan”, tạm qua chơi bên xóm mà làm câu “tiếng gà điếm cỏ”, sửa đổi lời thơ biên tái, khoe cái tuyệt diệu của Gia Châu, trau chuốt thể thơ cung đình, huênh hoang cái tiếng nối theo Thiếu Bá; thì dẫu dùng nghìn bài chất chứa bể khổ, có trăm vần vắt kiệt từ tấc dạ héo khô cũng không quan hệ gì đến tính linh cả. Ví như việc học viết, nếu cứ câu chấp theo phép tắc mà không biến hóa, thì tuy được cái mặt chữ Lan Đình cũng chẳng ai chấp nhận. Ông Tô Đông Pha bàn về viết chữ có nói là “không học cũng xong”, ai mà hiểu được ý của ông thì có thể cùng bàn chuyện làm thơ. Sớm tối tôi phải từ biệt rồi, nên tập thơ đưa lại đây tôi chưa thể đọc xong được, chỉ xin đem ý kiến quê mùa trình bày ra, mong được ban cho lời dạy bảo thêm mà thôi! Tôi với Quốc công qua lại đã lâu, thơ của Quốc công đâu phải đợi đến ngày nay rồi mới nói đến, cũng đâu phải đợi đến Quát này rồi mới có thể nói đến được! Sáng ngày mai, ở phía Nam ngoài cầu Đốc Sơ, thấy ở phía Nam cửa khuyết có ánh sáng ngun ngút bốc lên trên nửa tầng không, giữa trời xanh mây trắng, từ xa nhìn lại mà không thấy chán, chẳng phải là núi Thương Sơn hay sao? Mua rượu ngồi uống ở nơi trường đình, cởi áo bồi hồi, thưởng thức các bài thơ trong chùm Hà thượng của Quốc công, lòng khách cảm thấy xa xăm vời vợi. Ngày lành mới, đầu mùa Hạ, năm Tự Đức thứ ba (1849), quan Ngoại sử Cao Bá Quát, tự Chu Thần, hiệu Cúc Đường lạy viết” [9].
Theo chúng tôi, mấu chốt của bài tựa và quan niệm thi học được phát biểu trong bài hậu tự là hai chữ “tính linh”. Chính từ mấu chốt này, chúng ta có thể lần ra nguồn gốc và bản chất quan niệm thi học của Cao Bá Quát. Đây không phải là phát hiện hoàn toàn mới mẻ của chúng tôi. Thực chất, từ lâu, nhiều nhà nghiên cứu đã chú ý đến nó. Tuy nhiên, chưa ai chưa đi sâu lí giải nguồn gốc, ý nghĩa của hai chữ cực kì quan trọng này. Trong quá trình tìm hiểu ảnh hưởng của các lí thuyết thi học Trung Hoa đến tư tưởng thi học Việt Nam, chúng tôi đã bước đầu chỉ ra nguồn gốc, ý nghĩa của nó, từ đó bước đầu đánh giá khuynh hướng tư tưởng thi học của Cao Bá Quát là theo thuyết “tính linh” thời Minh Thanh [17]. Nhưng trong bài viết đó, Cao Bá Quát chỉ là một mắt xích trong nhiều các mắt xích quan trọng của một “vệt” tư tưởng thi học là “thuyết tính linh Việt Nam thời trung đại”. Qua nghiên cứu lí thuyết này, chúng tôi nhận thấy, đặc điểm cơ bản của thuyết tính linh có ba điều: Một là, đề cao tình cảm chân thật, “tính tình” tự nhiên; Hai là, đề cao cá tính, thiên tư hay cái tôi (bản ngã); Ba là, đề cao sự biến hóa, linh hoạt, thần tình, sáng tạo về hình thức nghệ thuật, không sùng cổ, nệ cổ [17]. Những đặc điểm này thể hiện rất rõ trong quan niệm thi học của Cao Bá Quát.
Có thể nói, trong bài Thương Sơn thi tập hậu tự, Cao Bá Quát đã có ngầm ý tranh luận với Miên Thẩm và các thành viên trong thi xã Tùng Vân (còn có tên là Mặc Vân). Tiểu sử của Cao Bá Quát cho biết ông có giao du với các nhà thơ trong thi xã Tùng Vân của Miên Thẩm nhưng không hoàn toàn tán thành với quan điểm của họ. Bài tựa này cũng thể hiện điều đó. Phần đầu dành lời phê phán lối thơ “ủy mị, yếu ớt”, “mô phỏng quá nhiều mà phong cốt chưa cao, tô điểm có khéo nhưng tinh thần còn thấp”,v.v... Ở đây, Cao Bá Quát còn dẫn lời của Khương Tây Minh “rập theo âm kêu, câu rậm để làm khí tượng, rồi thác là Thịnh Đường, đó chính là việc làm của những kẻ chìm ngập trong thi thoại của các nhà, ăn món ăn của cổ nhân mà không hóa được vậy”. Khương Tây Minh tên thật là Thần Anh (1628 - 1699), hiệu Trạm Viên và Vi Gian, một nhà thơ, nhà văn, nhà sử học, nhà thư pháp nổi tiếng cuối Minh đầu Thanh. Khương Thần Anh, người huyện Từ Khê (nay là trấn Âu Khê, tỉnh Giang Bắc), cùng với Chu Di Tôn, Nghiêm Thằng Tôn xưng là “Giang Nam bố y” (áo vải đất Giang Nam), đỗ Thám hoa năm 1697 đời Khang Hi khi đã 70 tuổi, giữ chức Hàn lâm viện biên tu, hai năm sau được bổ làm Phó chủ khảo kì thi hương ở phủ Thuận Thiên (Bắc Kinh), bị nghi gian lận trong thi cử, hạ ngục, uống thuộc độc tự tận, sau được Khang Hi minh oan. Tác phẩm của ông có: Trạm Viên tập, Vi Gian tập, Hải phòng tổng luận, Vi Gian thi tập, Tây Minh văn sao,v.v... Toàn bộ tác phẩm của ông được người đời sau biên soạn thành bộ Khương tiên sinh toàn tập, 33 quyển khắc in. Ông cũng tham gia biên soạn Minh sử, Đại Thanh nhất thống chí,… Về sự nghiệp thư pháp, Khương Thần Anh được xem là “Khang Hi tứ đại gia”, sở trường về chữ “tiểu khải”. Về sự nghiệp thơ văn, Khương Thần Anh nổi tiếng về các bài luận về lịch sử (Nhị thị luận, Sở Tử văn luận,...) quân sự (Hải phòng tổng luận, Giang phòng tổng luận,...) và thơ từ (Ngẫu đề hữu phúng, Tạp vịnh, Lâm giang tiên, Thu liễu, Điệp luyến hoa,...). Ở Việt Nam, tên tuổi của Khương Tây Minh cũng có tiếng vang nhất định. Ngoài Cao Bá Quát, Miên Thẩm, Miên Trinh,… cũng có nhắc đến nhân vật này. Chẳng hạn, trọng Luận thi trát tử, Miên Trinh có viết: “Các nhà thơ thời Thanh như: Vưu Đồng, Chu Di Tôn, Khương Thần Anh, Tống Lao, Tống Uyển, Uông Uyển, Thi Nhuận Chương đều có thể phất cờ, tự thành một đội, thi giáo ôn nhu đôn hậu không mất, đủ có chỗ cậy vậy” [14]. Tư tưởng của Khương Thần Anh là không câu nệ vào cách sáo, không câu nệ cổ nhân, chủ trương tự do, phóng khoáng. Có thể nói, Khương Thần Anh là bậc tiền bối có ảnh hưởng nhất định đến sự ra đời thuyết “tính linh” của Viên Mai. Bởi vậy, việc Cao Bá Quát dẫn lời Khương Thần Anh là dễ hiểu. Câu “ăn món ăn của cổ nhân mà không tiêu hóa được (thực nhi bất hóa) trong lời của Khương Thần Anh lại có xuất xứ từ tác phẩm Đề tự tác họa sách của Quân Hướng: “Có thể thấy ý muốn sẵn có là trở thành cổ nhân nhưng ăn mà không hóa, vẽ hổ không thành, thực là loại khắc thuyền tìm kiếm vậy”. Quân Hướng (1568 - 1655) là một họa gia nổi tiếng thời Minh, nguyên tên là Bản Sơ, tự Đạo Sinh, hiệu Hương Sơn, sở trường về tranh sơn thủy. Chủ trương của Quân Hướng là “lĩnh hội thần tình” trong nghệ thuật hội họa của cổ nhân chứ không phải bắt chước theo kiểu ăn tươi, nuốt sống, bởi vậy được Khương Thần Anh dùng lại. Chủ trương “lĩnh hội thần tình/ không mô phỏng hình tích” rất phổ biến trong thi học Minh Thanh, đặc biệt là phái “thần vận” và “tính linh”. Rõ ràng, ở đây có sự kế thừa học tập tư tưởng nghệ thuật qua nhiều thế hệ. Việc Cao Bá Quát dẫn lời Khương Thần Anh thực chất là để phê phán lối thơ bắt chước, mô phỏng, không chân thực về tình cảm; cũng là sự phê phán khuynh hướng tư tưởng “phục cổ”, “cách điệu” thịnh hành đương thời.
Phần sau bài tựa dường như tranh luận trực tiếp với Miên Thẩm – người “nối gót phái học phục cổ của Lưỡng Hán, Tam Đường” (Trương Đăng Quế), “Khởi nguồn từ Thất tử/ Bàn thơ chuyên dùng cách điệu” (Dương Ân Thọ), “tổng hòa của thần vận và cách điệu” (Nguyễn Đình Phức) - chủ trương “thi tất Thịnh Đường”, học tập cổ nhân, kịch liệt phê phán thuyết “tính linh”. Trong nhiều phát biểu của mình Miên Thẩm cực lực phê phán Viên Mai, Triệu Dực, những “lãnh tụ” của thuyết tính linh. Chẳng hạn, trong Thương Sơn thi thoại, Miên Thẩm từng phê phán Viên Mai: “Cái mới của thơ, có khi là do dùng lại lời của cổ nhân có sửa đổi đi một hai chữ mà càng mới. Bọn Viên Mai, Triệu Dực không biết như thế, chuyên tìm tòi những chuyện tục, những việc mà người ta không thèm để ý tới, xong rồi tự khoe khoang với nhau. Lỗi này không phải người xưa không nói nhưng bọn họ coi đó là thiển cận mà không chịu sửa. Nhưng xét thi tập của hai nhà ấy cũng không ra ngoài lời nói của người xưa, ấy do bởi thiếu kiến văn mà ra cả” [12]. Miên Thẩm chủ trương tuân theo các quy cách chặt chẽ, học tập tiền nhân (dĩ nhiên có sáng tạo). Chủ trương “thi tất Thịnh Đường” cũng là xu hướng thịnh hành đương thời. Câu thơ “Văn như Siêu, Quát, vô Tiền Hán/ Thi đáo Tùng, Tuy, thất Thịnh Đường” (tương truyền của Tự Đức) cho thấy điều đó. Cao Bá Quát đứng về Viên Mai và những người chủ trương “tính linh”, dù ông không trực tiếp nhắc đến. Ông yêu cầu thơ “gốc ở tính tình”, ông phê phán những bài thơ bắt chước cổ nhân “không quan hệ gì đến tính linh cả”. Quan niệm này rất giống với quan niệm của Viên Hoằng Đạo, Viên Mai. “Tính linh” trong quan niệm của Cao Bá Quát một mặt là “tính tình” (“gốc ở tính tình”, như ông đã nhấn mạnh) nhưng mặt khác, có thể nói là “thần tình”, “linh cơ” hay sự “biến hóa”. Họ Cao (?) có cách (hoặc dẫn lại cách) ví von khá sâu sắc: “Ví như học viết, nếu cứ theo lề lối không biết biến hóa, thì tuy có hệt được cái mặt ngoài của lối chữ Lan Đình cũng chẳng ai thèm kể vào đâu”. Cách ví von này (?) sau đó không lâu cũng được Bùi Văn Dị trích lại và diễn giải như sau: “ý nghĩ đến đâu, bút theo đến đấy, là như vậy. Có người cứ dựa dẫm vào các nhà, bắt chước những việc cũ, câu chữ tuy khéo léo, nhưng ý vị thần tình thì kém hẳn. Ví như việc học viết, nếu cứ câu chấp theo phép tắc mà không biến hóa, thì tuy được cái mặt chữ Lan Đình, người ta vẫn thấy chán” [Tốn Am thi sao tự tự] [1]. Rõ ràng, qua việc viết chữ (thư pháp), Cao Bá Quát nói đến việc tiếp thu hồn cốt, thần tình một cách linh hoạt nghệ thuật của cổ nhân. Nói khác đi, “học mà như không học”, tức biến cái học tập thành cái của mình, học tập nhưng phải “hóa”. Để diễn giải ý này, Cao Bá Quát mượn lời Tô Đông Pha: “không học cũng xong”. Câu nói của Tô Đông Pha mà Cao trích dẫn là từ bài thơ Họa Tử Do luận thư (Họa bài thơ Tô Tuân, tự Tử Do bàn về thư pháp) trong đó có những câu: “Ta tuy không giỏi viết chữ/ Nhưng không ai hiểu việc viết chữ như ta/ Nếu có thể thông cái ý của nó/ thì thường nói rằng không học cũng xong/ Mặt đẹp dung nhan có nếp nhăn mày/ Viên ngọc xinh làm sao phương hại đến dáng tròn của nó/ Đoan trang nhuốm vẻ tươi tắn/ Khỏe cứng bao hàm vẻ mềm mại/ Ưa nó thường tự giễu mình/ Không nói rằng ông cũng như Pha này/...”. Bài thơ này thể hiện quan điểm về thư pháp của Tô Đông Pha, tức học cổ nhân là học cái ý, cái thần của họ chứ không câu thúc vào vẻ bên ngoài, nghĩa là học “truyền thần”, lĩnh hội được cái thần của nó, chứ không cần học một cách máy móc. Câu thơ của Tô Đông Pha nhằm nhấn mạnh sự tự nhiên và biến hóa của ngòi bút (ông gọi là “thần vị”, “chí vị”). Cao Bá Quát bàn về thơ cũng đề cao “thần lí” (nghĩa lí tinh thần). Lời bàn về thơ của họ Tô thích hợp cho việc giải thích hai chữ “tính linh” mà Cao Bá Quát sử dụng. Ở đây, không nên hiểu ý Tô Đông Pha và Cao Bá Quát là họ phủ nhận học vấn, tri thức hay sự kế thừa. Họ chỉ phản đối cách học máy móc, khuôn sáo mà thôi! Có thể hiểu, “không học” ở đây là việc giữ cho “tính linh” luôn nhạy cảm, thần diệu (kiểu giữ cái “lòng con trẻ” hay cái “sơ tâm” vậy!). Họ Cao khá tự tin vào quan niệm của mình, cho nên ông chốt lại đoạn tranh luận về thơ bằng câu: “Ai hiểu được ý ấy thì có thể cùng bàn chuyện làm thơ được”. “Ý ấy” có lẽ là cái ý về sự huyền diệu của “tính linh”, “tính tình”, không dựa dẫm kẻ khác.
2.2. ... đến các sáng tác còn lại của Cao Bá Quát
Rải rác ở những trước tác khác, Cao Bá Quát cũng thể hiện rõ quan niệm đó. Chẳng hạn, trong bài thơ Văn tất kỉ xuất, ông tuyên bố: “Há có đôi bàn tay khéo chạm trổ/ Mà lại đi làm bài văn bằng cách chắp vá văn của người khác?/ Chọn lời phải thật lòng từ chính mình/ Văn từ viết ra ắt hơn hẳn người khác/ Đánh cắp câu văn đồng nghĩa với cặn bã/ Câu thơ hay mới mẻ vốn từ kinh sách điển tịch mà ra/ Khí văn thông thoáng ào ạt tựa giấy cỏ rậm/ Lời văn viết ra tinh diệu như muốn vút tầng không/ Lam bản hoàn toàn không để ý đến/ Kẻ có tài văn xuất chúng ai thèm theo lối của anh/ Buông lời chân thật có thể trở thành một nhà trong thiên hạ/ Vì thế ngọn bút cũng có sức mạnh quét được nghìn quân/ Cái tự mình tìm được không giống cái mà mọi người cùng được/ Điều người khác đã nói mình cũng dễ dãi nhại theo/ Thì chỉ đáng dùng làm đồ tế khí nơi tông miếu mà thôi/ Trên đây là những lời kí vọng hết sức ân cần của tôi” [6, tr.35-36]. Chủ trương “văn ắt từ trong mình mà ra” hoàn toàn phù hợp với thuyết “tính linh” mà Cao Bá Quát theo đuổi. Theo Nguyễn Đình Phức: “Bài thơ trên có thể coi là tuyên ngôn nghệ thuật của Cao Bá Quát, quan niệm văn tự kỷ xuất, văn là sự tuôn chảy từ suối nguồn tính linh nơi mỗi con người” [6, tr.36]. Thực ra, chủ trương này của Cao Bá Quát bắt nguồn từ Hàn Dũ (768 - 824). Trong bài Nam Dương Phàn Thiệu Thuật mộ chí minh Hàn Dũ viết “Ôi! người xưa đối với văn từ đều rút từ bản thân ra, người đời sau không làm được như thế thì bèn trộm cắp” (duy cổ ư từ tất kỉ xuất, hàng nhi bất năng nãi phiếu tặc). Tư tưởng của Hàn Dũ là làm văn, tạo lời phải biết dựa vào chính mình, không dựa dẫm, sao chép, ăn cắp. Hàn Dũ cũng là người chủ trương “vật bất bình tắc minh” (vật không bằng phẳng thì ắt kêu lên) cũng là đề cao cảm xúc chân thật của người làm văn viết thơ. Thơ văn của Hàn Dũ cũng chủ trương theo lối riêng, không giống bất kì ai. Do đó, ta không lấy làm lạ khi Cao tiếp thu chủ trương trên của Hàn Dũ. Trong Hoa Tiên truyện tự, ông đề cao chữ tình trong cuộc đời và trong văn chương: “Xưa nay nỗi khổ của người ta không gì bằng chữ tình, mà cái khó ở đời không gì bằng sự gặp gỡ...” . Ông phê phán những người “khinh bạc”, “không xét kĩ”, cho Hoa Tiên, Truyện Kiều “là loại văn dâm đãng, khúc hát lẳng lơ” mà không hiểu cái “tình”, “tiếng nói răn đời”, “tiếng nói hiểu đời” của hai tác phẩm. Trong Thiên cư thuyết ông lại lặp lại quan điểm đó: “Đã đành rằng ồn hay tĩnh là tùy từng nơi, khổ hay vui là tùy từng cảnh, song trông thấy vật mà cảm xúc đến việc rồi lặng lẽ mà ngậm ngùi cho cái đã qua, âu cũng bởi chữ tình xui nên thế” [3, tr.346]. Một lần uống trà với bạn là Phan Sinh, Cao Bá Quát liên hệ giữa nghệ thuật uống trà và làm thơ: “Uống trà không nên ướp hoa/ Ướp hoa sẽ mất chân vị của trà”, bởi “một nắm của hiếm mà bắt mũi mình phải xem mãi những thứ không thực”. Từ đó, Cao Bá Quát đi đến một kết luận: “Áo lòe loẹt không làm cho dáng người mạnh mẽ/ Âm điệu rườm rà làm biến đổi thể thơ Đại Nhã” [Vị minh tiểu kệ đồng Phan Sinh dạ tọa] [3, tr.305]. Trong bài Đề sát viện Bùi công Yên Đài anh ngữ khúc hậu, Cao Bá Quát tuyên bố dõng dạc: “Đóng cửa mà gọt giũa câu văn, lải nhải nhai lại từng câu từng chữ. Điều đó khác chi con sâu đo muốn đo cả đất trời” [3, tr.167]. Cũng ở đây, Cao nhấn mạnh đến trạng thái “ngưng thần”, “thần tứ”, “thần vị”,v.v... những khái niệm không xa lạ gì với thuyết “tính linh”. Cũng xuất phát từ tư tưởng cởi mở của thuyết tính linh, Cao Bá Quát đã có cái nhìn khá trân trọng với thơ ca quốc ngữ. Trong Hoa Tiên truyện tự, ông khẳng định: “Sống ở đất này, có thể bỏ được tiếng quốc âm không? Không bỏ được! Ôi! Người xưa đã đem tâm chí đúc chuốt thành lời hay ý đẹp, cốt để chắp lông nối cánh cho văn chương của ta, mà ta lại coi thường được sao?”. Các tác phẩm thơ quốc âm nổi tiếng của dân tộc được đưa ra đánh giá, thẩm bình với một thái độ trọng thị: “lời nói thì bi tráng, văn viết thì trầm hùng, những cái đó khác nào như bụi bặm, cám bã mà đã đem hun đúc thành gạch gói, giúp đỡ cho tác giả, khiến cho sau đây Truyện Kim Vân Kiều đã có thể xuất hiện” [3]. Mặc dù còn ngần ngại trong việc bắt tay sáng tác thơ quốc âm, nhưng “thiện cảm” với loại thơ “mua vui”, loại thơ chơi này rất rõ: “Than ôi! Lấy quốc âm làm văn chương thì ta chưa dám, nhưng lấy văn chương mà coi quốc âm thì ta có phần tán thành. Nước ta từ sau Hàn Thuyên, các tác giả xuất hiện như rừng: Ôn Như Hầu làm thơ cổ cận, khuôn mẫu ngang với Thiếu Lăng; Bằng Quận công đặt điệu cung từ, ruổi rong không nhường Hán Ngụy; đến như văn hay của truyện khúc đến nay ta được thấy Hoa Tiên và Kim Vân Kiều. Như vậy, nếu chỉ coi quốc âm thì hai cuốn truyện này không có cũng được, nhưng nếu còn cần phải tiến lên, tìm cách làm thế nào cho rõ văn chương của ta, thì các bạn cùng yêu văn với ta nghĩ sao đây?” [3]. Cao Bá Quát dành vấn đề còn bỏ ngỏ cho thế hệ sau tiếp tục giải quyết.
Nhân đây, cũng phải nói đến một tư liệu là bài Tiêu Lâm thi tập tự. Bài bạt này lâu nay được dịch là Tựa tập thơ Rừng chuối và được mặc nhiên cho là của Cao Bá Quát và qua đó tìm hiểu quan niệm thi học của ông. Theo sự điều tra của chúng tôi thì bài tựa này là của Vũ Phạm Khải (1807 - 1872) viết cho cuốn Tiêu Lâm thi tập của Phạm Đăng Thuật. “Tiêu Lâm” là tên hiệu của ông này. Bản dịch hiện nay cũng chưa đầy đủ, cắt xén khá nhiều. Mặc dù trong bài tựa này có một số quan niệm khá hay, nhưng theo chúng tôi, đó không phải là quan niệm thi học của Cao Bá Quát. Chẳng hạn, “Âu Dương Tu nói: “Thơ cùng rồi sau mới hay”. Ôi! Đúng là như vậy sao? Cùng chưa phải tất cả đều hay, mà đạt chưa từng là không hay. Hẵng còn do ở người nữa! Nhưng lấy hai điều đó mà bàn, cùng mà thơ hay thì dễ, đạt mà thơ hay mới khó. Cùng thì rải tình hoài ra ngoài đỉnh núi bờ sông, để đưa lối cho sự than thở của cô thần, nghiệt tử. Bọn Đông Dã, Lí Ngao có thể làm được điều này. Đạt thì nói lên sự thịnh trị của nước nhà, để nối tiếp lên sáng tác nơi minh đường, thanh miếu, nếu không phải là các bậc hiền nhân, quân tử chứa đầy đạo đức, ấp ủ văn chương thì không thể không thể làm được. Biết cái hay của sự cùng mà không biết cái hay của sự đạt, thích cái dễ mà bỏ cái khó, đó là một điều nhầm lẫn vậy” [Tiêu Lâm thi tập bạt] [10]. Đây là quan niệm của người “đạt” như Vũ Phạm Khải, chứ không phải kẻ “cùng” như Cao Bá Quát! Hơn nữa, phần sau bài tựa tán dương hơi “sáo rỗng” văn tài và địa vị của Phạm Đăng Thuật. Đó không phải là giọng văn thường thấy của Cao Bá Quát.
Thơ Bá Quát chính là một minh chứng sinh động cho quan niệm thơ của ông. Về nội dung, ta thấy rõ thơ Cao Bá Quát thể hiện bản lĩnh, bản ngã và khát vọng lớn lao và cả thái độ “phản kháng” của ông, vượt lên trên thói thường, vượt “lễ giáo”, đồng thời cũng không thiếu những cảm xúc chân thành với dân chúng lầm than, với quê hương và đặc biệt là với những người thân của mình (vợ, con gái, bạn hữu,...). Về hình thức, ngôn ngữ, hình ảnh thơ Cao Bá Quát rất phóng khoáng, mới lạ, độc đáo. Thể thơ ông chọn cũng vậy. Trần Đình Sử từng khảo sát và nhận xét: “Có lẽ do quan niệm thơ chân thành, tự nhiên, có cá tính sáng tạo, phản đối bắt chước mà Cao Bá Quát có cách lựa chọn hình thức thơ cho mình. Thơ tiếng Việt ông thích thể hát nói, thơ chữ Hán ông thích thơ ca, hành, cổ phong, những thể thơ tự do, ít làm thơ luật. Đây là điểm có khác Nguyễn Du. Thơ chữ Hán Nguyễn Du có 249 bài, trong đó có 22 bài ca hành, cổ phong, bằng 8,8%, trong khi đó thơ chữ Hán của Cao Bá Quát (Toàn tập, tập 1) có 418 bài, trong đó có 77 bài cổ phong, ca hành, tương đương 18,4%, nhiều hơn gấp đôi” [11, tr.17]. Việc Cao Bá Quát còn sáng tác cả hát nói cũng có thể lí giải được từ gốc gác này.
2.3. Nguyên nhân và tiếng vọng
Vì sao Cao Bá Quát lựa chọn đi theo xu hướng “tính linh”? Theo chúng tôi có mấy nguyên nhân sau: Một là, cá tính mạnh mẽ, ý thức về bản ngã rất cao của ông; Hai là, thời đại Cao Bá Quát sống cũng là thời đại của sự thức tỉnh cá tính, cái tôi cá nhân; Ba là, thời Nguyễn, sự giao lưu văn hóa ra bên ngoài được mở rộng, nhiều lí thuyết thi học mới đã được tiếp thu. Bốn là, xuất thân và số phận đặc biệt của Cao Bá Quát. Ba nguyên nhân đầu đã được nói đến rất nhiều. Chúng tôi xin nói thêm về nguyên nhân thứ tư. Cao Bá Quát xuất thân Bắc Hà, nơi có truyền thống về Nho học theo khuynh hướng “tâm học”, cũng là nơi đang phát triển xu hướng “quý chân” và “chủ tình” trong văn học và trong tư tưởng thi học (những tiền đề của thuyết “tính linh”). Cao được thừa hưởng truyền thống đó, từ Đặng Trần Côn, Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Du,... Cao lận đận trên con đường khoa cử, trục trặc và tan vỡ hoài bão “kinh bang tế thế”. Ông bất mãn sâu sắc với giới quý tộc, quan lại, trí thức hãnh tiến. Cũng giống Viên Mai, Cao đã cực lực phê phán, đả kích các nhà thơ cung đình, các nhà Nho bảo thủ, trung thành với “thi giáo”. Điều đó cũng thống nhất với con đường phản kháng mà sau này Cao Bá Quát đã lựa chọn: chống lại triều đình. Đây lại là sự thống nhất giữa quan niệm thi học với nhân sinh quan của Cao.
Bình luận về thuyết “tính linh”, Phạm Ngọc Hiền có một nhận xét khá xác đáng rằng: “Sang giữa thế kỉ XIX, Cao Bá Quát đề cao thuyết tính linh trong sáng tác văn học và được nhiều nhà nho có tư tưởng cởi mở thời đó ủng hộ. Điều này cho thấy văn chương lúc bấy giờ đang có sự bứt phá khỏi thi pháp cổ điển để chuẩn bị chuyển sang thi pháp hiện đại” [2]. Quả vậy, đương thời có Trương Đăng Quế, Bùi Văn Hi ủng hộ Cao. Sau đó ít lâu có Bùi Văn Dị, Nguyễn Tư Giản, Nguyễn Thượng Hiền, Hoàng Trọng Mậu, Trần Trinh Cáp,v.v... tiếp bước [16]. Sang thời hiện đại, thuyết “tính linh” vẫn được tiếp tục đón nhận, ủng hộ. Cho đến tận những năm 1919 - 1932, trong Chương Dân thi thoại, Phan Khôi tỏ ra tâm đắc với thuyết “tính linh” bởi thuyết “tính linh” của Viên Mai có xu hướng tiếp cận tư tưởng thi học hiện đại và trên thực tế có ảnh hưởng mạnh trên thi đàn Trung Quốc đầu thế kỉ XX. Điều đó cũng phù hợp với tinh thần truy cầu đặc trưng và đổi mới thơ của Phan Khôi. Nhận xét về Tùy Viên thi thoại, công trình thi học quan trọng nhất của Viên Mai, Phan Khôi viết: “bộ thi thoại nầy của Viên Mai, hiệu Tùy Viên là bộ thi thoại có tiếng nhất đời Thanh, nhiều người đọc và ưa nó lắm. Tôi làm việc nầy là việc điên điên ngộ ngộ, xin chớ ai cười!” [4, tr.144]. Cái việc “điên điên ngộ ngộ” ấy chỉ là cách nói khiêm tốn mà đằng sau là tâm huyết, nỗ lực thầm kín của ông. Với việc dịch thơ, ông cũng có một chủ trương rất rõ ràng, theo thuyết “tính linh” của Viên Mai: “Tôi muốn dịch, là muốn dịch những thơ chuyên tả tánh linh ấy kia” [4, tr.144]. Tư tưởng của Phan Khôi cũng chịu ảnh hưởng của thuyết “tính linh” khá rõ, như ông phê phán sự mô phỏng, rập khuôn, sáo rỗng người xưa (thuyết “cách điệu”), phê phán những loại thơ cử tử, thơ “công thiếp”, thơ “khẩu khí”; đề cao những tác phẩm thể hiện tình cảm chân thật, sự sáng tạo độc đáo. Ông làm bài thơ Tình già - bài thơ mở đầu cho phong trào Thơ Mới – cũng trên tinh thần của thuyết tính linh: “Bởi vậy tôi rắp toan bày ra một lối thơ mới. Vì nó chưa thành thực nên chưa có thể đặt tên kêu là lối gì được, song có thể cử cái đại ý của lối thơ mới này ra, là đem ý thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu có vận, mà không phải bó buộc bởi những niêm luật gì hết. Ấy là như: Tình già…” [4, tr.53]. Nếu xem Phan Khôi là người mở đường cho sự ra đời của Thơ Mới thì phải thừa nhận rằng một trong những nguyên nhân sâu xa đưa đến thành tựu đó là ảnh hưởng sâu đậm của thuyết “tính linh”. Vì sao thuyết tính linh vẫn được hưởng ứng như vậy? Theo chúng tôi, đó là nhờ tính cởi mở, dân chủ của nó phù hợp với tinh thần hiện đại. Cũng chính nhờ tính cởi mở, dân chủ đó, phi thần bí, nó cho phép các tác giả sáng tác cả thơ quốc âm (vốn khác thơ chữ Hán về nhiều mặt: ngôn ngữ, tư duy nghệ thuật), mà một trong những xu thế của thơ cận hiện đại là quay về với quốc âm.
Như vậy, bằng việc nhận chân nguồn gốc, bản chất quan niệm thi học Cao Bá Quát, chúng ta có thể thấy được tính thống nhất của nó, đồng thời có được chiếc chìa khóa để đi vào thế giới nghệ thuật đa dạng, đa tầng của ông, lí giải một cách có căn cứ các đặc điểm nội dung và nghệ thuật của thế giới đó. Từ đây, chúng ta cũng thấy được vị trí, đóng góp của Cao Bá Quát cho lịch sử tư tưởng thi học Việt Nam nói riêng và lịch sử tư tưởng văn học Việt Nam nói chung trong tính liên hệ và tính thống nhất của nó.
[Bài đăng Kỉ yếu Hội thảo Khoa học Cán bộ Trẻ Trường ĐHSP Hà Nội, Nxb ĐHSP Hà Nội, năm 2010, có sửa chữa, bổ sung]
Tài liệu tham khảo
[1] Bùi Văn Dị (1894). Tốn Am thi sao, Thư viện NCHN, VHv.702.
[2] Phạm Ngọc Hiền (2008). “Lược sử thi pháp Việt Nam”, Tạp chí Văn nghệ sông Cửu Long. URL: http://vannghesongcuulong.org
[3] Vũ Khiêu (1984). Thơ văn Cao Bá Quát, Nxb Văn học.
[4] Phan Khôi (1996). Chương Dân thi thoại, Nxb Đà Nẵng.
[5] Phương Lựu (1997). Góp phần xác lập quan niệm văn học Việt Nam trung đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[6] Nguyễn Đình Phức (2009). “Luận thi thi một hình thức phê bình trong văn học Việt Nam cần được chú ý khai thác”, Tạp chí Hán Nôm, số 5, tr.31 - 43.
[7] Nguyễn Đình Phức (2006). “Về bài Tự tự Tĩnh Phố thi tập của Miên Trinh”, Tạp chí Hán Nôm, số 3, tr.45.
[8] Nguyễn Đình Phức (2006). "Nguyễn Miên Thẩm dữ thần vận thi học”, Ngoại vực Hán tịch nghiên cứu tập san, đệ nhất tập, Trương Bá Vĩ chủ biên, Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh, trang 265-285
[9] Nguyễn Ngọc Quận (1999). “Quan niệm của Cao Bá Quát về văn học”, Tập san Khoa học xã hội và nhân văn, Trường đại học KHXH&NV Thành phố Hồ Chí Minh, số 6, tr.27.
[10] Quốc triều văn tuyển, Thư viện NCHN:
[11] Trần Đình Sử (2008). “Đôi điều về quan niệm văn học của Cao Bá Quát”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 11, tr.17.
[12] Nguyễn Phúc Miên Thẩm (XIX). Thương Sơn thi thoại, Thư viện NCHN: VHv. 105.
[13] Nguyễn Ngọc Thiện, Cao Kim Lan (2002), Tranh luận văn nghệ thế kỉ XX, tập 2, Nxb Lao Động, H.
[14] Nguyễn Phúc Miên Trinh (1875). Vi Dã hợp tập, Thư viện NCHN: A.782/1-3.
[15] Phạm Quang Trung (2003). “Bước đầu tìm hiểu quan niệm văn chương của Cao Bá Quát”, URL: http://www.pqtrung.com
[16] Nguyễn Thanh Tùng (2008). Vài nét về thuyết tính linh trong tư tưởng thi học Việt Nam thời trung đại, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 1, trang 108 – 115.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét